"Khai mở nhận thức sâu thẳm và duy trì cảm xúc tình người thiêng liêng"

....

.

.
.

ABA Quotes

Những bài viết của Thầy Duy Tuệ về Đức Vua - Đức Phật Trần Nhân Tông

Thây

Bài Học Sống Đạo

Có vị giáo sư nước ngoài hỏi tôi rằng:
Vua Trần Nhân Tông chủ trương "Cư trần lạc đạo"
Sao Ngài lại xuất gia chạy theo hình tướng?

Tôi thưa rằng:
Ai muốn hiểu rõ việc ấy
Thì cần nghiên cứu và ứng dụng hành trạng của Ngài.

Tôi sẽ nói vài tác dụng xuất gia của Ngài
Về bài học quý báu sống đạo của Ngài
Bài học về tình thương, về trí tuệ siêu việt
Về cuộc sống giải thoát
Bài học hoàn thành xuất sắc trong các vai diễn xuất
diệu dụng tuỳ duyên.

Việc sống đạo của Trần Nhân Tông có những
giá trị to lớn thực sự.

Giá trị từ hình tướng xuất gia và giá trị từ
nội lực của Ngài.
Ngài Trần Nhân Tông là vị vua nhà Trần đặc biệt
Bản lĩnh không khuất phục Bắc Triều
Đoàn kết hoàng tộc, toàn quan, toàn quân, toàn dân
hai lần đánh thắng Nguyên Mông
Sau đó hiện tướng xuất gia sống đạo
Đem ánh đạo vàng gieo rắc khắp nhân gian.

Ai bỏ được cái khó bỏ nhất
Người ấy thật sự có nội lực đặc biệt, nội lực giải thoát
Trần Nhân Tông nhường ngai vàng lúc mới ba sáu tuổi
Từ biệt hoàng hậu, cung phi, các hoàng tử, công chúa
và cuộc sống đế vương
Khoác áo nhà sư hoằng chuyển pháp luân vô thượng 
Sống hạnh Đầu đà dạy dân tri túc.

Thông thường các hoàng tử của triều đình
Ở địa vị cao sang khó có thể nhận được chân lý của đạo
Cũng khó có thể thuận theo ý chỉ hành đạo
của phụ hoàng
Ngài đi tu sống đạo giúp cho họ chuyển động nội tâm
Các hoàng tử cũng dễ theo gương đạo đức của Ngài
Ngay trong xã hội bây giờ khắp cả hành tinh
Việc giáo dục gia đình theo truyền thống đạo đức
cũng là vấn đề nan giải.

Thường thì các bậc cha mẹ
Ít thể hiện tình thương chuẩn mực hướng đến đạo đức
Tạo hạnh phúc cho gia đình và xã hội
Cuộc sống đạo đức dần dần suy thoái.
Họ chỉ thể hiện khả năng lanh lợi của mình dẫn đến
vô minh chấp ngã
Thể hiện thành đạt cái khôn của trí óc
Họ không biết như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến
con cái như thế nào
Họ không biết những thứ ấy kết cuộc sẽ đem đến cho
gia đình, cho xã hội băng hoại
Chính họ cũng không biết cuối cùng họ sẽ về đâu
Để che dấu sự không biết ấy, họ cứ húc đầu vào mãi
Hậu quả trầm trọng như vậy
Vì họ thiếu phước duyên tiếp cận với các bậc đạo sư.

Họ khổ vì thiếu tiền
Họ khổ vì nhiều tiền
Họ khổ vì chưa thoả mãn danh
Họ khổ vì cái danh đang có
Họ khổ vì dại
Họ cũng khổ vì quá khôn
Họ khổ vì chưa có sự nghiệp
Rồi họ khổ vì có sự nghiệp ấy cột chặt cuộc đời
Chưa có thì khổ đau ngơ ngác kiếm tìm
Có rồi thì khổ đau vì gìn giữ lo âu
Cuối cùng họ chẳng biết về đâu
Chẳng biết sống như thế nào để được yên vui,
hạnh phúc.
Cha mẹ đã như vậy, còn con cái thì sao đây?
Chỉ khi nào hiểu được, trải nghiệm được chân lý của đạo
Hiểu được chân lý cuộc đời
Mọi khát vọng sẽ dừng lại và tan vỡ
Trí tuệ giải thoát sẽ ngự trị
Tình yêu sẽ tuôn trào
Cảnh đau khổ trước đó, bây giờ là Niết Bàn,
là thiên đàng an lạc
Lúc bấy giờ nội lực người ấy sẽ ảnh hưởng
những người chung quanh
Nội lực an lạc sẽ tác động cho môi trường an lạc.

Hoàng tộc cũng có nhiều vấn đề mâu thuẫn, phức tạp
Khó ai có thể thoả mãn trong cương vị của mình
Lòng họ cũng nhiều sân hận, lo âu
Ngài là bậc đế vương tối thượng
Lại từ bỏ tất cả khoác áo tu hành, sống đời đơn giản
Tất nhiên có tác động tốt cho đạo đức của hoàng gia.


Hoàng tộc nào trên thế gian này cũng lắm điều bi đát
Lòng tham lam và sân hận ngập tràn
Đầu óc họ nghĩ đến chiếm đoạt cho nhiều
Lòng họ luôn sân hận vì chưa thoả mãn.

Nhưng khi một vị hoàng đế oanh liệt, đức độ như Ngài
Buông tất cả để sống đời đạo hạnh
Không lẽ hoàng tộc không chuyển lòng?
Trong trường hợp họ không chuyển được
Thì ít ra họ cũng dằn cơn tham sân chút đỉnh
Một chút đỉnh thôi triều đình cũng êm ấm
Nhân dân trong nước cũng được nhờ.

Bậc đế vương và hoàng tộc chuyển tâm đạo đức
Không lẽ quan quân có thể khác được sao?
Họ cũng chuyển tâm theo con đường đạo đức
Quan quân mà đạo đức thì nhân dân phước báu biết bao
Đất nước mới thực sự hạnh phúc an vui!

Toàn dân bấy giờ đều hướng về Phật giáo
Mỗi xã một ngôi chùa
Cũng là nơi sinh hoạt văn hoá của nhân dân
Ngài dạy cho nhân dân thực hành các điều thiện
Và dạy cho họ giữ gìn năm giới Phật răn
Không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, rượu chè,
hút xách và nói dối
Ngài dạy cho dân phải biết an cư lạc nghiệp
Ngài còn đem vàng bạc của triều đình
Phát chẩn cho những người dân thiếu đói
Ngài khuyến khích mọi người sản xuất và tái thiết
đất nước sau chiến tranh
Ngài sống đạo mà nhân dân no ấm
Nếu ai cũng sống đạo, hành đạo theo Ngài thì dân
lợi biết bao.
Lúc bấy giờ tăng đoàn đông quá
Mà sản xuất của nhân dân có hạn
Thì lấy đâu mà nuôi nổi những người xuất gia
Xuất gia tu hành đâu phải là không tốn kém
Tiền xây chùa, tiền ăn học thuốc men
Mỗi năm phí tổn biết bao nhiêu tiền của!

Nên Ngài đã chủ trương thanh lọc
Chỉ để lại ít thôi
Muốn tu thì ở đâu mà chẳng được
Đất nước đang nghèo, độc lập bấp bênh
Vậy nên giải thoát phải đi liền với no cơm ấm áo
Và độc lập chủ quyền Tổ quốc
No cơm ấm áo, an ninh quốc gia và xã hội
Là nền tảng cơ bản cho cuộc sống giải thoát
Ngài đã hướng việc tu hành của tu sĩ theo hướng ấy.

Đạo nằm ngay tại mỗi hành động no cơm ấm áo
Đạo nằm ngay tại hành động bảo vệ đời sống hoà bình
Đạo không nằm trong tụng kinh gõ mõ,
trì chú ngồi thiền
Đạo của Ngài và Ngài sống đạo như vậy đó.

Nếu tu được như Ngài thì thật sự mới gọi là tu
theo đạo Phật
Cuộc đời chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường
Như một con nước trên một dòng sông
Luôn biến đổi và mãi mãi đổi thay
Từng con nước gắn liền nhau thành một dòng chảy
liên tục.

Cuộc đời là dòng chảy liên tục
Dòng đời và thời gian quyện vào nhau luân chuyển
Vậy nên ta phải có ý thức trách nhiệm với cả một
dòng đời
Ta sống cho ta hôm nay là tiếp tục của
dòng đời hôm qua
Và cho dòng đời ngày mai, mặc dù ngày mai ra sao
ta chưa thể biết.

Ta hình thành cuộc sống của ngày mai bằng
hành vi đạo đức hôm nay

Trần Nhân Tông đã thể hiện trọn vẹn dòng chảy
của cuộc đời
Ngài vẫn biết cuộc đời là thế
Nên dấn thân vào dòng chảy của cuộc đời
Mở rộng thêm bờ cõi sơn hà và thân tâm tịnh độ.

Giờ khắc huyền thân thị hiện đã xong
Ngài an trú vô niệm hoà vào ánh từ quang chư Phật.

Trong dòng đời Ngài hiện tướng xuất gia
Đem lợi lạc cho Tổ quốc và đồng bào
Trong dòng đời, Ngài hiện tướng xuất gia
Đã mở cho Phật giáo một con đường thênh thang
đến vô thượng Bồ đề.

Cuộc đời Ngài là "kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa"
Dạy vua Anh Tông đạo làm vua
Dạy quan Nhữ Hài thay vua ứng xử ngoại giao
Dạy công chúa xả thân vì Tổ quốc phủ dụ Chiêm Thành
Khuyến giáo chị đến đi vô ngại.

Do vậy
Lúc viên tịch, Ngài lưu bố:
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền".

Thể hiện lối sống Thiền Siêu Thiền
Ngài sống vượt qua thiền, vượt qua tôn giáo
Ngài thể hiện trọn vẹn đạo mà Đức Thích Ca chứng ngộ
Hành trạng của Ngài, nay thành di sản văn hoá
vĩ đại của Việt Nam
Giá trị xuất gia của ngài là như vậy đó.

Hành trạng của ngài là trọn vẹn với đạo
Ngài sống như đạo nhiệm mầu
Mà Phật giáo là con đường Ngài đã dụng
Ngài không bị giáo điều và các hình tướng tu hành trói buộc
Giá trị sống đạo của Ngài là di sản văn hoá vĩ đại của
 nhân loại.
Câu lạc bộ Trần Nhân Tông
Linh Xuân - Thủ Đức, ngày 10/10/2002



Sống Trong Thiền Định
(Bài này dành cho các chủ doanh nghiệp trang trại)
   
Đức Phật Hoàng Trân Nhân Tông dạy về Cư trần lạc đạo:
          " Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
          Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền."
    Ngài dạy con người nên sống trong thiền. Ngài đưa ra hình ảnh của sống thiền. Đức Phật dạy: “đau khổ tức Bồ đề”. Bồ đề có nghĩa là sáng tỏ, sáng suốt, tính chất này chính là thiền định. Vậy thiền định sẽ thực sự đến từ chỗ nào nếu không phải từ nơi khổ đau, nơi có đấu tranh, có phiền muộn, có buồn vui? Nếu ai đó cố ý làm ra một hình thức thiền thì thiền định sẽ không bao giờ đến với nơi ấy. Trong thời điểm chứng đạo, Đức Phật vui sướng mà tuyên bố rằng: “Ta đã chứng được tâm vô lậu và tuệ giải thoát. Tâm vô lậu chính là tâm thiền định." Ở trạng thái ấy, tâm sẽ cho con người những hiểu biết vừa đủ để ứng phó với những gì đang xảy ra mà không cần phải ưu tư để tìm ra lối thoát. Vì khi ưu tư suy nghĩ tìm lối thoát, những suy nghĩ ấy thường xuất phát từ tư tưởng chiếm hữu và dẫn đến tâm mờ ám, tất nhiên thường dẫn đến những quyết định rối loạn.
    Krishnamurti, một đạo sư lớn của thế giới cũng đã nói: “Thiền định không phải cái gì khác với đời sống hàng ngày, đừng đi về một góc phòng và thiền định trong mười phút, rồi lại trở ra và làm một tay đồ tể."
    Còn Tuệ Trung Thượng Sỹ, thầy dạy đạo thiền của Trần Nhân Tông cũng dạy: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, trong lò lửa đỏ một bông sen."
    Một vị hoàng đế cai trị một khoảng trời, nếu muốn sự cai trị ấy đem lại tốt đẹp cho ông ấy và cho đồng bào, cho Tổ quốc thì ông ấy sẽ phải sống trong thiền. Thời nhà Lê có câu chuyện hay, vua Lê Đại Hành hỏi thiền sư Pháp Thuận về vận nước, ngài Pháp Thuận trả lời:
          Quốc tộ như đằng lạc
          Nam thiên lý thái bình
          Vô vi cư điện các
          Xứ xứ tức đao binh.

Dịch:
          Ngôi nước như mây quấn
          Trời Nam mở thái bình
          Rỗng rang trên điện các
          Chốn chốn tắt đao binh.
    Quý vị là những chủ doanh nghiệp, quý vị cai quản thế giới doanh nghiệp của mình cũng đầy những phức tạp. Trong thế giới ấy luôn sinh động như một dòng chảy không ngừng nghỉ, nếu quý vị không ở trong thiền định thì thế giới ấy trước sau cũng dẫn tới rối loạn. Lòng quý vị không rỗng rang, không bình yên, bình tĩnh thì thế giới ấy không phải là dòng chảy êm ái mà là dòng chảy của phong ba bão táp.
          Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
          Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền.
    Đạo ở đây là thực tại, là chân lý, là lẽ thật, là bao trùm, không chọn lựa, không hôm qua, không ngày mai, chỉ có ngay đây và bây giờ.
    Ý nghĩ, lo âu, sầu muộn, sợ hãi, tính toán, hơn thua, ghen ghét, vui buồn đều không hợp với đạo, với thiền định. Chúng với đạo là cách biệt. Đạo thì thật, trạng thái tâm thiền định thì thật, còn chúng thì không thật, chúng như bóng ma, chợt đến chợt đi. Nhưng hầu hết con người lại chìm đắm trong chúng! Quả thật tai hại biết chừng nào!
    Nhưng có được bao nhiêu người trong cuộc sống an vui với thực tại đâu. Vấn đề ở đây chính là tâm. Nói đến Cư trần lạc đạo hay sống trong thiền định là nói về tâm của mỗi người. Người ta thường nghĩ về quá khứ hay vẫn sống với quá khứ, những thứ đã đi qua và không bao giờ trở lại, hoặc người ta sống với lo lắng hay hy vọng vào ngày mai, những thứ chưa được biết hay không thể biết một cách chắc chắn. Như vậy thì làm sao an vui được. Quá khứ và tương lai đưa họ đến suy nghĩ, lo âu, hy vọng và thất vọng. Những trạng thái ấy làm vẩn đục tâm, tính sáng bị mờ. Bản chất của tâm là thấy và biết, giờ đây cái thấy biết bị mờ, đây cũng là một phần của mê. Nó làm cho họ không còn thấy rõ các vấn đề đang xảy ra và vì vậy sẽ không có cách ứng xử phù hợp.
    Cuộc sống là bao hàm toàn bộ. Nhưng nếu con người không tập trung tại chỗ nhận biết, dùng nhận biết để quan sát cái toàn bộ thì sẽ rơi vào sự chia chẻ, tâm sẽ mất đi tính chất thiền định vốn có, bị thế giới nhị nguyên dằng xé, rời xa đạo và không được đạo nâng đỡ. Hãy nhìn vào đứa trẻ dưới hai tuổi, nó không biết gì về quá khứ, không có khả năng nghĩ đến ngày mai, không suy tư, không ý tưởng, không lo lắng sầu muộn, nó thấy cái gì cũng mới, nó không bị kinh nghiệm chi phối, nó sống bằng trực giác, vì vậy nó dễ thương và mọi người dễ gần gũi và nó đương nhiên được cuộc đời nâng đỡ. Nó vô tình huy động được sức mạnh của cuộc đời và tạo hoá săn sóc nó, đạo nâng đỡ và nuôi dưỡng nó.
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
    Trẻ thơ không có sự lựa chọn trong cuộc sống, nhưng nó vô tình mà sống tuỳ duyên. Nó không đau khổ. Ai cũng thấy nó đẹp và nó thực sự có sức mạnh mầu nhiệm. Bên ngoài nó mỏng manh, nhưng sâu bên dưới là sức mạnh mầu nhiệm kỳ lạ! Còn người lớn thì luôn lựa chọn. Cuộc sống như một dòng chảy, ta trên dòng chảy ấy làm sao lại lựa chọn. Lựa chọn là của tư tưởng. Ta cứ lựa chọn, cuộc đời cứ trôi chảy, được hay không được cũng đừng vui mừng hay đau khổ.
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
    Cách sống này là sống trong thiền định, hoàn toàn hợp với đạo. Tâm không bị vướng vào bất cứ gì. Tâm như vậy là toả sáng. Nhưng quý vị cứ nhìn lại mình mà xem. Có lúc đói cũng không muốn ăn. Nếu đói quá sợ sút cân thì ăn trong tình trạng chán ngán, ê chề, lo sầu nuốt không nổi! Mệt muốn ngủ mà cũng không ngủ được. Ăn, ngủ không được là do quá khứ quấy rầy, tương lai thôi thúc. Tư tưởng nghĩ về quá khứ và tương lai trở thành những con ma quỷ quệt hành hạ họ ngày đêm.
Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
    Thái độ này của tâm hợp đạo, hoà vào đạo và như vậy tâm luôn phát sáng, các con ma không thể xuất hiện. Như trong phòng đèn sáng thì bóng đêm tan biến trong hư không, nhưng nếu đèn không sáng thì bóng đêm bao phủ. Thái độ này của tâm sẽ là môi trường cho trí tuệ Phật hay thánh trí nơi mỗi chúng ta hoạt động. Loại trí tuệ ấy gọi là tuệ giác, nó không do suy nghĩ mà có, chính do trạng thái vắng lặng của tâm làm cho nó phát sinh ra một khi hoàn cảnh chung quanh đòi hỏi, gọi là tuỳ duyên mà ứng hiện.
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
    Con người quen tìm mọi thứ bên ngoài, đến nỗi họ dựa hẳn vào bên ngoài để mưu tìm hạnh phúc hay niềm vui. Họ tin bên ngoài và tin vào suy nghĩ tính toán của mình. Bên ngoài thì luôn thay đổi và họ cũng không làm chủ được. Còn tư tưởng, suy nghĩ bên trong cũng không thực, không bền vững, không chắc chắn, nó là cái bóng của ký ức, là cái ảnh của niềm mơ. Vậy mà dựa vào chúng thì làm sao yên tâm được, dựa vào điều không thật. Cái gì không thật thì không sống động và mầu nhiệm. Hãy dựa vào bản chất của tâm là sự nhận biết. Ngoài sự nhận biết, tâm còn có nhiều thứ quý giá khác có thể giúp con người vượt qua khổ đau và lo lắng như lòng kiên nhẫn, sự thành thật, chân tình, tính thận trọng, ý chí, tình thương, sự hoà đồng, niềm tin cậy vào sự mầu nhiệm của chân tâm hay tính sáng của tính nhận biết, sự hồn nhiên, sự thanh thản, sự rỗng không của tâm, tinh thần phá chấp, tinh thần vô tư không chấp ngã, tình yêu… Những thứ ấy thật vô cùng quý giá, chúng có sẵn nơi tâm mỗi người.
    Kho báu bên trong cho ta sự thoả mãn, còn những kho báu bên ngoài sẽ cho ta sự khổ sở vì phải đối đầu. Hầu như chưa có một chủ kho báu bên ngoài nào an lạc hân hoan thật sự. Họ chỉ có niềm vui và hạnh phúc nho nhỏ ngắn ngủi rồi tiếp tục đối phó cho đến hơi thở cuối cùng đầy bi đát. Còn những ai nhìn thấy kho báu bên trong, tâm hồn vắng lặng thì các bậc ấy an lạc và hân hoan triền miên trong mọi hoàn cảnh và thời gian.
    Hãy biến những thứ đó thành tài sản hữu hình nếu muốn. Hãy dùng những thứ quý báu ấy vượt qua khó khăn. Chỉ một tình yêu không thôi cũng mạnh hơn quyền uy của bạo chúa, mạnh hơn tiền bạc châu báu ngọc ngà, mạnh hơn vũ khí hạt nhân!
    Hãy chuyển tâm về với trạng thái thiền định thì cảnh bên ngoài sẽ chuyển. Con người nhiều khi đánh mất chính mình mà không hề biết. Chạy theo lòng ham muốn tầm thường, mà đem những rác rưởi trong tâm ra dùng để thoả mãn các loại ham muốn. Thông thường, sự ham muốn bắt nguồn từ bên trong mà con người khó thấy, nên họ khéo che đậy nó để rồi trở thành ung nhọt. Nếu có sự ham muốn bên ngoài, mà sâu bên trong không có sự ham muốn thì những ham muốn ấy là tuỳ duyên để vui người vui mình. Chỉ có ham muốn ấy là ham muốn của bồ tát. Và ai cũng là bồ tát được.
    Quý vị là các chủ doanh nghiệp, chủ trang trại, cũng là các vị bồ tát vì việc làm của quý vị không phải để kiếm cơm ăn áo mặc mà trong sâu thẳm của tâm hồn, quý vị thực lòng muốn làm được một cái gì đó tốt đẹp như để khẳng định giá trị làm người của quý vị, nhất lại là người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước vừa mới hoà bình sau gần khoảng hai trăm năm chiến tranh! Các vị là bồ tát thật, vì các vị có ích thật sự cho cuộc đời dù quý vị có thất bại hay thành công.


    Quý vị nên chú ý điều quan trọng này:
          Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
          Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền.
    Đây là cách sống Đạo mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã khám phá và ứng dụng trong toàn bộ cuộc sống của mình. Ngài là một vị hoàng đế của Đại Việt cách nay khoảng bẩy trăm năm. Ngài là đỉnh cao của lòng yêu nước nồng nàn, đánh bại đội quân xâm lăng mạnh nhất thế giới, nhưng lại sống giải thoát toàn triệt. Vì vậy, Ngài mới đủ bản lĩnh đúc kết con đường sống đạo như trên.
    Con đường ấy không né tránh cuộc đời, con đường bao gồm toàn bộ cuộc đời không lựa chọn. Không chọn thành thị hay núi rừng, không chọn tại gia hay xuất gia, không chọn tu hành hay không tu hành, không tính toán thiệt hơn, con đường hết sức thực dụng, thực tế vì Đạo là thực tế. Con đường không chọn ăn chay hay ăn mặn, con đường không có hình thức hay phương hướng bên ngoài tâm, con đường phi thời gian và không gian, con đường không đề cao hay hạ thấp. Ấy là con đường của thiền định trong cuộc sống hằng ngày, hay còn gọi là cách sống trong thiền định.
    Quý vị chú ý đến vấn đề trọng đại này mà chưa cần để ý đến các hình thức tu thiền nào khác:
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
    Hãy chú ý đặc biệt thường xuyên đến tâm nhận biết, ấy là bản chất căn bản của tâm. Khi nhận ra được thực tại này, quý vị sẽ có kinh nghiệm về kho báu. Chưa cần vội quan tâm đến trì giới, tụng kinh, trì chú. Những thứ ấy sau này sẽ hiểu và áp dụng tuỳ duyên. Thông thường, con người hay chạy đông chạy tây hướng tâm ra ngoài tìm cầu sự mầu nhiệm nào đó để giúp cho họ vượt qua khổ đau, hoặc tìm những cảnh giới ngoài tâm để mong gặp thánh hiền giúp cho họ con đường về với đạo. Thánh hiền hay thánh trí đã sẵn trong tâm rồi vậy. Bồ Đề Đạt Ma đã dạy: “Tâm tức là phật, phật tức là tâm. Ngoài tâm không phật, ngoài phật không tâm”. Nếu biết tự tâm là phật chớ nên tìm phật ngoài tâm. Những người đi tìm phật, hết thảy đều chẳng biết tự tâm là phật. Nếu chẳng thấy tính (tâm nhận biết) thì niệm phật, tụng kinh, ăn chay, giữ giới cũng không ích lợi gì.
    Cái quý báu nhất của con người chính là tâm phật nơi chính mình. Tâm này thường sinh ra vô lượng công đức, nó thường nâng đỡ đời người theo kiểu riêng của nó mà lí trí không thể biết được. Phải tuyệt đối tin cậy vào tâm này!
Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền
    Nếu một người cố ý tạo ra một kĩ thuật thiền, một pháp thiền nào đó, thiền định sẽ không xuất hiện. Tính chất của thiền là vô tư, vô tâm, là buông bỏ các ý nghĩ. Người ta dùng nhận biết để nhận biết, để quan sát tất cả các vấn đề đang diễn ra trong nội tâm mình, đang diễn ra chung quanh mình. Chỉ quan sát, nhận biết cho tỏ tường, vượt qua sự dính mắc với các vấn đề ấy. Lúc này, nguồn tâm nhận biết như một dòng sông trong vắt đang tuôn chảy, tất cả các vật chứa trong dòng sông này đều được trông thấy một cách tường tận, dòng sông không vướng vào nó được. Dòng sông nhận biết về nó. Sự nhận biết được tập trung thì nguồn tâm càng thanh tịnh, càng trong sáng. Ấy chính là tâm thiền định. Sự nhận biết tường tận giúp cho họ biết được bản chất của các cảnh. Bản chất của chúng thường thay đổi, không bền, vô ngã và rồi sẽ đến chỗ tan rã hoàn toàn để trở về lại trong hư không, nơi mà nó đã ra đi. Ra đi chỗ nào, về lại chỗ ấy. Giống như không nơi đi và đến.
    Nhưng họ có vô tâm được đâu. Tâm và cảnh lúc nào cũng có chất keo dính vào, nên chúng chạm nhau là dính liền gỡ không ra!
          Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
          Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền.
    Có người sẽ nghi ngờ rằng nếu sống như thế thì vai trò của suy nghĩ, tính toán coi như không có, làm sao chấp nhận được. Đừng có lo, khi sống như thế thì tâm vắng lặng, tức tâm trong trạng thái thiền định, lúc ấy Phật tính sẽ tiếp xúc với não và sẽ ra lệnh cho não phát ra những trí tuệ cần thiết nâng đỡ khi hữu sự. Hãy cứ thử sống như vậy một thời gian ngắn chừng vài ba tháng sẽ có kinh nghiệm nhiệm mầu của Phật tính hay chân tâm. Con người đã có kinh nghiệm quá nhiều trong cuộc sống có tính toán, nhưng lại ít kinh nghiệm vô tư trong cuộc sống. Hình như tiền bạc đến với con người trong lao động vô tư chân thật và ra đi khi con người tính toán đến điểm cao nhất. Cũng là một sự kì lạ!
    Hãy tin cậy trí tuệ của trạng thái tâm bình yên, vô tư, vắng lặng. Trạng thái tâm này có cơ chế làm việc chính xác mà ta không thể nào hiểu được. Chỉ có sự tin cậy tuyệt đối vào nó và hãy sống như vậy đi rồi sẽ rõ dần. Sống như vậy sẽ hiểu biết nhiều và làm việc nhiều với độ chính xác cao mà tâm thì như không làm gì cả, không dính mắc vào thành công hay thất bại. Cách làm việc như vậy là làm việc trong thiền định.
    Chúc quý vị ứng dụng thành công con đường cư trần lạc đạo, tức sống thiền mọi lúc mọi nơi!
          Đi cũng thiền
          Ngồi cũng thiền
          Trong lò lửa đỏ một bông sen.
18/08/2002


Vua Phật Trần Nhân Tông

    Nhân dân Việt Nam đều biết Vua Trần Nhân Tông là một vị Minh Vương, một vị Thánh Vương và là người ứng dụng lời Phật dạy trong mọi hoàn cảnh. Trong thời kì làm Thái Thượng Hoàng, trong tâm Ngài luôn sống bằng hạnh của một vị xuất gia, được 6 năm và sau cùng Ngài sống cuộc đời xuất gia hoàn toàn từ trong tâm đến ngoại tướng.
    Để minh chứng rằng Ngài đã sống phù hợp chính pháp của Phật từ lúc là Thái Tử đến khi tịch diệt, chúng tôi xin trích các kinh Phật từ kinh A Hàm đến kinh Đại Thừa. Đồng thời, chúng tôi cũng trích một số nội dung trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Thánh Đăng Lục và những hành trạng của Ngài. Và cũng cho thấy rằng phật pháp bất ly thế gian, phật pháp góp phần xây dựng và phát triển, một quốc gia hoà bình, an ninh, thịnh vượng, đoàn kết trong nhân dân, trong triều đình và giữa triều đình với nhân dân. Cũng qua các trích dẫn ấy cho thấy ngài Trần Nhân Tông đã dùng bản lĩnh Việt Nam để ứng dụng, hoàn chỉnh giáo lý Đức Phật, hoàn thành sứ mệnh của mình đối với nhân dân, với tổ tông, với triều đình, với đất nước và các nước lân bang. Điều này vẫn còn có giá trị đến ngày nay và mai sau.
    Trong kinh Phật dạy bẩy điều làm cho một xã hội cường thịnh là:
    Một là hoà hợp trong dân chúng.
    Hai là dân chúng đoàn kết.
    Ba là pháp luật nghiêm minh và có truyền thống dân tộc.
    Bốn là dân chúng biết kính trọng đạo đức, biết kính trọng người lớn tuổi.
    Năm là xã hội an ninh, không có các hiện tượng hà hiếp, bắt cóc, cưỡng ép các thiếu nữ, phụ nữ.
    Sáu là có tín ngưỡng và tôn trọng truyền thống tín ngưỡng.
    Bảy là kính trọng và ủng hộ chư tăng (kinh Tăng Chi Bộ).
    Và Phật cũng dạy mười nhiệm vụ của nhà vua là:
    Thứ nhất, là sự rộng rãi bố trí, bác ái. Người cai trị không được có một thèm khát và bám víu nào
đối với tài sản, tiền của mà phải bố thí cho dân được no ấm.
    Thứ hai, một đạo đức tốt đẹp, không sát hại, lừa bịp, và bóc lột kẻ khác, không tà dâm, nói lời sai quấy và rượu chè. Tóm lại phải giữ gìn tối thiểu năm giới luật phổ biến.
    Thứ ba, hy sinh tất cả vì hạnh phúc của dân, vua phải sẵn sàng từ bỏ tiện nghi cá nhân, tên tuổi danh vọng và ngay cả sự sống của mình vì lợi ích của dân.
    Thứ tư là trực hạnh. Phải xa lìa sợ hãi và thiên vị khi thi hành nhiệm vụ, phải thành thật trong ý định và không được lừa bịp quần chúng.
    Thứ năm là khổ hạnh. Vua phải sống một đời sống giản dị, không xa hoa, phải biết tự chế bản
thân mình.
    Thứ sáu là nhu hoà. Vua phải có tính tình hoà nhã.
    Thứ bẩy là không thù hận, ác độc. Vua không có tư thù với bất cứ ai.
    Thứ tám là bất hại, không hãm hại ai, đề cao hoà bình, ngăn chặn chiến tranh, tránh dính dáng đến bạo động và sát hại sinh mạng.
    Thứ chín là nhẫn nhục. Vua có thể chịu đựng những khó khăn, khổ nhọc và những sự nhục mạ mà không mất bình tĩnh.
    Thứ mười là không đối lập, không ngăn cản. Nghĩa là không được đi ngược lại với ý chí của toàn dân, không được cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lộc cho toàn dân. Vua phải cai trị thuận với ý chí của dân. (kinh Bổn Sinh).
    Trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương, Phật cũng dạy:
    Một vị Chuyển Luân Thánh Vương hãy nương trên pháp, an lập trên pháp, thành tựu nơi pháp, cung kính tôn trọng, quán sát pháp, lấy pháp làm đầu, thủ hộ chính pháp; răn dạy các thế nữ bằng pháp; chăm sóc, dạy dỗ các vương tử, đại thần, các quan lại, trăm quan và thứ dân bằng pháp hộ trì, chăm sóc các sa môn cho đến các cầm thú; tin người chân tu, ngộ đạo mà hỏi những việc thiện ác, những việc nên làm, những việc không nên làm; giúp đỡ người nghèo khó, cẩn thận trong việc sửa đổi luật cũ.
    Chính pháp ở đây là sống trên tinh thần vô ngã, có chính kiến, sống thiện, từ bỏ tham ái ở đời, hết lòng phục vụ nhân sinh.
    Chúng ta thấy những điều Phật chỉ ra ở trên thật là cao đẹp. Có thể nói, trên thế gian này có hai bậc đại bồ tát đã thực hiện gần như trọn vẹn lời dạy của Đức Phật. Đó là vua A Dục ở Ấn Độ, vị vua đã ủng hộ đạo phật rất mạnh mẽ. Ngài trị vì nước Ấn Độ trước công nguyên khoảng 300 năm. Đạc biệt, Ngài khuyên mọi người nên tu tại nhà hơn là xuất gia và Ngài cũng rất quý trọng các tu sĩ xuất gia. Ngài đã dự đoán được chiến tranh sẽ tàn phá đất nước, kinh sách Phật sẽ bị đốt nên Ngài đã cử người đi truyền đạo Phật ra các quốc gia khác và đã gửi kinh sách ở Srilanka, hiện vẫn còn tại viện bảo tàng Srilanka.
    Người thứ hai là vua Trần NhânTông của nước Đại Việt cách nay hơn 700 năm. Nước Đại Việt thời bấy giờ là quốc độ Phật. Từ Vương tôn công tử đến thứ dân hầu hết là phật tử, nơi nào có dân là nơi ấy có chùa. Đi chùa học kinh là một trong những tư cách đạo đức của người Việt thời bấy giờ. Chúng ta thấy được điều đó qua sử sách và di sản văn hoá lưu truyền đến ngày nay.
    Vua Phật Trần Nhân Tông đã thực hiện trí tuệ và đạo đức như thế nào?
    Từ thời niên thiếu đến khi trực tiếp cai trị đất nước, lúc làm Thái Thượng Hoàng đến khi xuất gia tại kinh thành và sau cùng là lên hẳn núi Yên Tử để thực hành đời sống của một bậc giác ngộ chính pháp. Như Thánh Đăng Lục đã ghi:
    "Năm 16 tuổi được làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố từ chối mấy lần, xin cho em mình thay thế đều không được vua cha chấp nhận. Thánh Tông cưới trưởng tử của quốc mẫu Nguyên Từ tức Thái Hậu Khâm Từ cho Ngài. Tuy sống trong cảnh vui hoà hạnh phúc mà tâm Ngài vẫn hướng về đường tu.
    Một hôm, vào giữa đêm, Ngài vượt thành trốn đi, định vào núi Yên Tử (năm 16 tuổi). Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người quá mỏi nhọc, Ngài vào nằm nghỉ trong tháp. Vị tăng trong chùa thấy dáng mạo Ngài khác thường, ông làm cơm thiết đãi. Hôm ấy, Thái Hậu đem trình bày hết cho Thánh Tông nghe. Vua liền sai quần thần đi tìm khắp nơi, bất đắc dĩ Ngài phải trở về. Khi lên ngôi (năm 21 tuổi) dù ở trong cảnh vinh hoa tột bậc, nhưng Ngài vẫn tự giữ mình thanh tịnh. Có lần Ngài ngủ trưa trong chùa Tư Phúc ở đại nội, chợt mộng thấy từ nơi rốn mọc lên hoa sen vàng lớn như bánh xe, trên hoa có Đức Phật vàng, một người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: "Biết Đức Phật này chăng? Đức Phật Biến Chiếu đấy!", Ngài liền giật mình tỉnh dậy, đem điều mộng trình lên vua cha. Thánh Tông mừng cho là việc khác thường.
    Do đó, Ngài thường ăn chay, thân thể ốm gầy, Thánh Tông thấy lạ bèn hỏi. Ngài thưa thật nguyên do với vua cha. Thánh Tông khóc, bảo: "Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế thì sự nghiệp tổ tông sẽ ra sao?" Ngài nghe vua cha nói vậy cũng rơi nước mắt.
    Bản chất Ngài rất thông minh và hiếu học, có nhiều tài năng, xem hết các sách, thông cả nội điển lẫn ngoại điển. Những lúc nhàn rỗi, Ngài thường mời các thiền khách đến bàn hỏi về tâm tông. Ngài tham học với Thượng Sỹ Tuệ Trung, đạt sâu tới chỗ thiền tuỷ và thờ Thượng Sỹ làm thầy.
    Không lâu sau, Ngài nhường ngôi cho Anh Tông (36 tuổi). Và Ngài đi thẳng vào núi Yên Tử (năm 42 tuổi) siêng năng chuyên lo tu hành, sống theo mười hai hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Ngài lập chùa chiền, cất tịnh xá, thuyết pháp độ tăng, học chúng tụ về đông đảo. Sau đó, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường đón chư tăng về đây lập hội giảng pháp trải qua mấy năm. Sau đó, Ngài lại đi vân du thong thả, đến trại Bố Chính lập am Tri Kiến và ở lại đây (trại Bố Chính nay ở Nghệ An, thuộc Chiêm Thành xưa kia dâng cho Lý Thánh Tông).
    Năm 47 tuổi (1304), Ngài đi khắp thôn xóm khuyến hoá dân chúng từ bỏ dâm từ, đồng thời dạy họ tu hành thập thiện. Mùa đông năm ấy, vua Anh Tông dâng biểu thỉnh Ngài vào đại nội trao cho tâm giới bồ tát tại gia. Hôm Điều ngự vào thành, vương công, bá quan chuẩn bị đầy đủ lễ nghi nghênh đón và sau đó đồng thọ giới pháp.
    Tháng giêng năm 1308 (năm 51 tuổi), Điều Ngự sai Pháp Loa đến chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại nối pháp trụ trì và giảng dạy. Tháng tư năm ấy, Ngài đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm, Lạng Giang, cũng sai Pháp Loa trụ trì, giảng dạy và chính Ngài giảng Truyền Đăng Lục và quốc sư Đại Nhất vì chúng giảng kinh Pháp Hoa.
    Giải hạ, Ngài vào núi Yên Tử, không để những người tịnh nhân, người giúp việc trong chùa ở lại mà chỉ để lại mười vị thị giả thường theo Ngài. Điều Ngự lên ở am Tử Tiêu giảng truyền Đăng Lục cho Pháp Loa. Thị giả lần lượt xuống núi, chỉ còn đệ tử thượng túc là Bảo Sát ở lại.
    Từ đó, Ngài vào các hang động, rồi về ngồi nơi thất đá. Bảo Sát bạch: "Tôn Đức tuổi đã cao mà xông pha sương tuyết như vậy lỡ ra có chuyện gì thì mạng mạch của phật pháp thế nào?" Ngài đáp: "Thời giờ của ta đã đến, ta muốn tạo cái kế lâu dài như vậy! ".
    Ngày mùng 5 tháng 10, người nhà của công chúa Thiên Thuỵ lên núi thưa, “công chúa bệnh nặng mong gặp Tôn Đức rồi chết”. Điều ngự bùi ngùi bảo, "thời tiết đến rồi!". Ngài bèn chống gậy xuống núi, chỉ đem theo một thị giả. Ngày mùng 10 đến kinh đô, qua ngày rằm, Ngài dặn dò xong liền trở về núi, nghỉ đêm ở chùa Siêu Loại. Sáng sớm hôm sau, Ngài đi bộ đến ngôi chùa nhỏ ở làng Cổ Châu, đề bài kệ:
          Số đời một hơi thở
          Lòng người hai biển bạc
          Cung ma cai quản ngặt
          Cõi Phật vui khôn ngần.
    Ngày 17, Ngài nghỉ lại chùa Sùng Nghiêm tại Linh Sơn, Hoàng Thái Hậu Tuyên Từ thỉnh đến am Bình Dương thiết trai, cúng dường. Điều Ngự vui vẻ bảo: "Đây là lần cúng dường cuối cùng".
    Ngày 18, Ngài đi bộ đến chùa Tú Lâm trên ngọn An Sinh Kỳ Đặc, cảm thấy đau đầu, Ngài nói với hai Tỳ Kheo Tử Doanh và Hoàng Trung: "Ta muốn lên ngọn Ngoạ Vân mà sức không thể đi được, biết làm sao đây? " Hai Tỳ Kheo thưa: “Hai đệ tử giúp cho thầy lên đó!”. Vừa lên tới ngọn Ngoạ Vân, Điều Ngự tạ ơn hai Tỳ Kheo và bảo: “Hãy xuống núi gắng lo tu hành, chớ cho sinh tử là việc nhàn rỗi!”.
    Ngày 19, Điều Ngự sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu, núi Yên Tử gọi Bảo Sát xuống gấp.
    Ngày 21, Bảo Sát đến Ngoạ Vân, Điều Ngự trông thấy mỉm cười bảo: "Ta sắp đi đây, ngươi đến sao trễ vậy! Ngươi đối với phật pháp có chỗ nào chưa rõ, hãy mau thưa hỏi!".
    Ngày 1 tháng 11, nửa đêm sao trời sáng tỏ, Điều Ngự hỏi:
    “Hiện giờ là giờ gì?”. Bảo Sát thưa: “Giờ tý”.
    Điều Ngự đưa tay mở cánh cửa, nhìn ra bảo: “Chính là giờ ta đi!”. Bảo Sát hỏi: “Tôn Đức đi đâu?”. Điều Ngự đáp:
          Tất cả pháp chẳng sinh
          Tất cả pháp chẳng diệt
          Nếu hay hiểu như thế
          Chư Phật thường hiện tiền
          Nào có đến đi gì?
    Bảo Sát liền hỏi: "Nếu không sinh không diệt thì thế nào?" Thượng Hoàng bỗng nhiên lấy tay che miệng Bảo Sát và nói, "đừng nói mơ".
    Nói xong, Ngài nằm theo thế sư tử lặng lẽ mà tịch”.
    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói về Ngài như sau:
    "Tên huý là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu, sinh năm Mậu Ngọ Nguyên Phong, năm thứ 8, tháng 11 ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần tuý đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chế hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên Đồng Tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi. Băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hoà nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thật là bậc vua hiền của nhà Trần".
    Qua các nội dung trên, chúng ta thấy Ngài là một vị Minh Vương khi làm vua, là Thánh Vương khi làm Thái Thượng Hoàng và là một vị Phật khi lên núi Yên Tử thực hành 12 hạnh đầu đà.
    Khi ấy đất nước, nhân dân và cá nhân Ngài là một. Đây là điểm hết sức đặc biệt của Ngài!
    Con người Việt Nam đầy lý tưởng ấy đã thực hiện trí tuệ và đạo đức như thế nào?
    Trước nhất đối với bản thân Ngài. Chúng ta thấy rất rõ rằng Ngài đã thể hiện ý thức, tư tưởng, ý chí và hành động trong việc tinh cần học tập và ly dục là con đường đưa đến hạnh phúc cho chính Ngài và ảnh hưởng tốt đẹp trực tiếp cho đất nước và nhân dân.
    Ông nội và cha của Ngài đều là những người chứng đạt được tâm vô lậu, chứng đạt thánh trí hay tuệ giải thoát mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã chứng đạt. Thánh trí đó là gì? Đó là bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong đó, Ngài cũng chứng thực rằng nguồn gốc của mọi khổ đau là lòng tham ái, sự sân hận và ngu si. Những con đường để giải quyết tận gốc nguyên nhân gây ra khổ đau là thực hành Bát Thánh Đạo: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính tinh tấn, chính mạng, chính niệm và chính định. Muốn thực hiện được những vấn đề trên thì phải nỗ lực học tập và ứng dụng nội điển, quay cái nhìn vào thế giới tâm của mình, như Ngài đã tự thuật trong bài "Hành trạng của Thượng Sỹ Tuệ Trung" rằng:
    "Một ngày kia, ta hỏi Người về cái gốc của tôn chỉ thiền, Thượng Sỹ ứng khẩu đáp: "Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được". "Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo thờ Người làm thầy".
    Như vậy, Ngài quyết tâm học tập nội điển, khám phá những điều Đức Phật đã khám phá để tự mình chứng đạt và ứng dụng, đạt đến thánh trí, quyết tâm ly dục, đạt cứu cánh hạnh phúc tại cuộc đời này. Đạt thánh trí để làm gì?

    Đối với vai trò một Minh Quân:
    Với cương vị là Vua, Ngài ra sức hoàn thành bổn phận của mình đối với tổ tông, với dân, với nước nên Ngài ra sức học tập nội điển và ngoại điển để đem thánh trí, trí tuệ thiện xảo và lòng từ bi cũng như sự dũng cảm mà lo cho dân, cho nước.

    Đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ:
    Ngài một lòng thờ phụng, giữ gìn truyền thống đạo đức và kỷ cương trị nước của ông cha. Khi cha Ngài sắp mất, Ngài đứng một mình bên cạnh, sử dụng chính pháp để giúp cha được cái chết thanh thản, tâm hồn định tĩnh, hoà vào ánh sáng trí tuệ vô thượng, hay còn gọi là hoà vào vô lượng quang A Di Đà, như trong Thánh Đăng Lục đã ghi:
    "Rồi vua đuổi hết kẻ hầu hạ, chỉ còn Nhân Tông đứng hầu một bên "Thưa, bệ hạ còn nhớ lời của Ngài Vĩnh Gia chăng?"
          "Rành rành thấy không một vật
          Cũng không người, chừ cũng không Phật
          Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi
          Tất cả thánh hiền như điện chớp
          Dẫu cho vòng sắt trên đầu chuyển
          Định tuệ sáng tròn vẫn không mất."
    Đây là hình ảnh Ngài đã đóng vai Phật A Di Đà đứng bên cạnh vua cha mà tiếp dẫn thần thức vào cõi định tuệ sáng tròn vẫn không mất, thật là tuyệt diệu! Rất phù hợp với sự khẳng định thế giới Cực lạc Di Đà của Ngài trong Cư Trần Lạc Đạo rằng: "Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc". Sau này khi về phủ Thiên Trường nơi có nhiều kỷ niệm của vua cha, Ngài đã thổ lộ tình hiếu tử qua hai câu thơ:
          "Phổ Minh phong cảnh y như cũ
          Phảng phất tình cha mộng thấy nhiều".

    Đối với con:
    Ngài ân cần, nghiêm khắc dạy dỗ con đường thánh đạo cho một bậc Thánh Vương (hay còn gọi là Thánh Vương chính pháp) là phải thực hành năm giới: không giết hại, lừa bịp và bóc lột kẻ khác; không tà dâm, không nói lời sai quấy; không rượu chè; không phung phí tiền của của nhân dân và triều đình.
    Trong Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu có đoạn ghi về việc Ngài trở về kinh, các quan đều không hay biết, vua Anh Tông uống rượu say và Ngài rất giận, triệu tập các quan răn dạy, còn vua Anh Tông phải nhờ Đoàn Nhữ Hài dâng biểu tạ tội. Thấy lời lẽ trong tờ biểu rất khẩn thiết, Ngài cho gọi vua đến dụ rằng: "Chả lẽ trẫm không còn con khác có thể nối ngôi hay sao? Trẫm vẫn sống đây mà còn như thế thì sau này sẽ như thế nào! ". Vua dập đầu tạ tội.
    Lại một lần khác, Ngài xem sổ triều đình thấy vua Anh Tông ban chức tước hơi nhiều, bèn ghi lên đầu rằng: "Một nước nhỏ bằng bàn tay sao lại có nhiều quan như thế này. Từ đó, vua Anh Tông thận trọng không khinh suất trao chức tước nữa.”.
    Ngài còn làm lễ thọ bồ tát tâm giới cho vua Anh Tông tu hạnh bồ tát tại gia, theo mẫu người bồ tát Việt Nam thời ấy (tức theo yêu cầu, nhiệm vụ của quốc gia dân tộc) như sau:
          "Sạch giới lòng, dồi giới tướng
          Nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
          Ngay thờ chúa, thảo thờ cha
          Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu."

    Đối với thầy dạy đạo:
    Ngài nhận Tuệ Trung Thượng Sỹ làm thầy để thờ, vì Tuệ Trung Thượng Sỹ đã chỉ cho Ngài con đường tu thẳng tắt là: "Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được".

    Đối với tướng lĩnh và quan lại:
    Được thể hiện trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và sau khi đại thắng quân Nguyên năm 1288. Đặc biệt khi được cấp báo về tình hình chiến sự Nội Bàng, Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Lúc ấy vua ngự chiếc thuyền nhẹ sang lộ Hải Đông. Ngày đã gần chiều, Vua chưa ăn cơm sáng, có tiểu tốt là Trần Lai đem dâng cơm gạo xấu. Vua khen là trung, ban cho tước thượng phẩm, kiêm chức tiểu thư xã xã Hữu triều môn ở Bạch Đằng".
    Như vậy, Ngài luôn sát cánh với các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy mặt trận. Ngài và các tướng lĩnh là một.
    Còn như trường hợp Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phá giặc có công, được phong Phiêu kỵ Đại tướng quân, rồi đến Tử Phục Thượng Vị hầu. Sau thông dâm với Thiên Thuỵ công chúa (con gái Thánh Tông, chị ruột Trần Nhân Tông đã gả cho Hưng Vũ Vương Nghiễm là con trai của Quốc Tuấn) nên bị mất chức, tịch thu tài sản. Khánh Dư lui về ở Chí Linh làm nghề bán than. Khi ấy, Khánh Dư đi thuyền đến Bình Than. Vua sai nội thị đi gọi. Tới nơi, Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá yết kiến vua. Vua nói: "Không ngờ nam nhi mà sa cơ đến nông nỗi này". Rồi xuống chiếu miễn tội. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi dưới hàng các vương. Khi bàn việc đều hợp ý nên vua phong chức ấy.
    Sau chiến thắng quân Nguyên năm 1288 Ngài đã khen thưởng rất xứng đáng cho các tướng lĩnh như Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi.
    Còn đối với những người nộp biểu hàng giặc trong lúc giặc đang ở thế mạnh vào cướp thì cũng để cho họ sống yên bằng cách cho đốt các hòm đựng biểu hàng giặc. Riêng những trường hợp hàng giặc trước đó đều phải bị xử nặng, kể cả trường hợp vắng mặt, như Đại Việt sử ký toàn thư ghi.
    Ngài cũng đã thọ bồ tát tâm giới cho tất cả quan lại triều đình.

    Đối với nhân dân:
    Một lòng thương yêu như thương con đỏ. Chăm sóc và giúp đỡ về vật chất, tinh thần và đạo đức như Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Mùa xuân tháng giêng, ngày 15, Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng, bạc, tiền, lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh giới thí".
    Ngài còn dạy dân sống theo chính pháp như trong Tam Tổ Thực Lục ghi: "Năm 1304, Điều Ngự đi khắp xóm làng dạy dân chúng phá bỏ các dâm từ và thực hành thập thiện". Thập thiện là mười điều Phật dạy cho chúng sinh thực hành để được sống yên vui, hạnh phúc và hoà hợp. Phá bỏ dâm từ là phá bỏ các miếu thờ, mang tính mê tín dị đoan.
    Ngoài ra, Ngài chỉ đạo khuyếch trương nông nghiệp để lương thực được đầy đủ, phát triển về thương mại như chợ búa và hải cảng. Ngài chăm lo vật chất, tinh thần, đạo đức và tâm linh cho nhân dân như người cha hết lòng lo lắng cho con.

    Đối với đạo Khổng, đạo Lão:
    Ngài đã thực hiện tinh thần bình đẳng và sử dụng trí tuệ Phật để sử dụng đạo Thánh mà truyền bá đạo phật và xây dựng đất nước như tinh thần của ông nội Ngài là Trần Thánh Tông. Qua bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Ngài dạy rằng: "Giáo lý của Đức Phật, ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời".



    Đối với lân bang:
    Chung quanh Đại Việt có hai nước thường quấy nhiễu là Chiêm Thành, Ai Lao và các Triều Đại Phương Bắc thường xuyên xâm lược thời bấy giờ. Do đó, việc bảo vệ tổ quốc hết sức gian khổ. Toàn dân vừa phải chống trả sự quấy nhiễu của Chiêm Thành mà còn phải giúp quân binh, thuyền bè cho Chiêm Thành chống quân Nguyên, vì an ninh của Chiêm Thành cũng là an ninh của Đại Việt. Đồng thời, ra sức chống quân Nguyên xâm lấn nước Đại Việt.
    Vào thời kỳ xuất gia, Ngài đã dùng chính pháp để an định tâm của vua và dân Chiêm Thành. Đây là việc làm của bậc Chuyển Luân Thánh Vương như trong kinh Phật thuyết. Vị Chuyển Luân Thánh Vương biết dùng chính pháp để trị hoá, nên các lân bang cũng dễ thuận theo và thậm chí lân bang có thể phát tâm dâng cúng những thứ quý báu, kể cả đất đai. Dưới triều Trần Nhân Tông, khi xuất gia, thực hiện hạnh Đầu Đà, Ngài đã mang y bát khất thực và thăm Chiêm Thành gần một năm. Vua Chiêm rất kính trọng và cảm động. Sau chuyến đi đó là việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Vì cảm đức của Ngài, vua Chiêm đã dâng Châu Ô và Châu Rý. Nhưng đối với Ai Lao, Ngài chinh phạt nghiêm khắc khi Ai Lao quấy biên giới Đại Việt.
    Đối với quân xâm lược phương bắc, Ngài khôn khéo lấy sự bố thí vật báu, sự nhẫn nhục tột độ để tránh các nguy cơ xâm lược. Ngài còn tìm cách tránh né không chầu để giữ tính độc lập, tính tự chủ của một vị vua một nước bằng đường lối ngoại giao mềm dẻo, nhẫn nhục như Đại Việt Kử Ký Toàn Thư ghi việc Ngài từ chối qua chầu vua Nguyên, có đoạn:
    Cô thần bẩm khí yếu đuối, vả lại đường sá khó khăn, chỉ luống phơi xương trắng làm cho bệ hạ phải xót thương mà không ích lợi gì cho triều đình trong muôn một. Cúi mong bệ hạ xót thương tiểu quốc xa xôi, khiến cho thần cùng những quan quả cô độc giữ được tính mạng, để suốt đời phụng sự bệ hạ. Đó là điều may mắn lớn cho cô thần và cũng là phước cho sinh linh".
    Nhưng Ngài cũng kiên quyết củng cố sức mạnh về quân sự, về kinh tế và đào tạo các tướng lĩnh tài ba, giáo dục quan quân cùng nhân dân một lòng đoàn kết, sẵn sàng chiến đấu và anh dũng chiến đấu để chiến thắng kẻ thù xâm lược.

    Đối với nội bộ hoàng tộc:
    Ngài là một người ngộ đạo hết sức gương mẫu trong cuộc sống nên Ngài cũng ra sức xây dựng tình đoàn kết thương yêu nâng đỡ lẫn nhau trong hoàng tộc. Là vị vua tu hành học rộng, đạo đức nên Ngài là trung tâm đoàn kết của hoàng tộc.

    Đối với việc xây dựng nước Đại Việt:
    Đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp để đảm bảo lương thực, chủ động lương thực no cơm, ấm áo cho dân và phòng ngừa thiếu thốn lương thực khi có chiến tranh. Về giao thông thương mại cũng được phát triển.
    Sau khi đánh đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, Ngài đã công bố đại xá cho cả nước và tha tô thuế tạp dịch cho những vùng trải qua chiến tranh như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi:
    "Tháng tư mùa hạ (1288), Thượng Hoàng ngự ở hành lang thị vệ (vì cung điện bị đốt) đại xá thiên hạ. Phàm những nơi nào từng bị binh lửa cướp phá thì miễn tô thuế và tạp dịch toàn phần, còn chỗ khác thì tha hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau".
    Xây dựng và cải tổ bộ máy hành chính sau chiến tranh như Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Trong tháng 2 năm 1290, chọn quan văn chia đi cai trị các lộ".

    Đối với việc ứng dụng Phật pháp:
    Ngài rất mực tôn thờ, kính trọng và ứng dụng chính pháp để trị nước, dạy cho triều đình và nhân dân về giới luật, đạo đức vì những điều Phật dạy thực sự sẽ giúp cho họ thành người có đạo đức và trí tuệ.

    Đối với hệ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử:
    Ở đây, chúng tôi xin lưu ý rằng, trong giáo lý Phật, thiền bị hiểu lầm rất nhiều. Ngày nay, người ta thường chú ý đến hình thức, kĩ thuật toạ thiền và có khi còn cho rằng đó là cốt lõi thiền của phật giáo. Kĩ thuật đó được diễn ra ở tu viện, trong núi rừng. Người ta cho đó là thiền chân chính. Nếu hiểu như thế sẽ không đúng với thiền của đạo phật. Không nên hiểu là những người theo thiền phái này đều xa đời và vào chùa, núi ngồi thiền suốt ngày để đạt được một năng lực siêu hình nào đó. Nếu có thứ thiền đó thì đó là thiền của dục vọng nhằm thoả mãn tâm lí hão huyền của người đời.
    Chúng ta phải hiểu mục đích của thiền trong đạo phật là tẩy sạch những tâm nhiễm ô, tẩy sạch những thứ làm cho tâm dao động như ý tưởng về tham ái, dâm dục, sân hận, biếng nhác, ác độc, phiền não, bất an, hoài nghi… Đồng thời, thiền sẽ giúp huân tập những đức tính tốt đẹp như tập trung chú ý, thông minh, ý chí nghị lực, an tịnh để cuối cùng giúp hành giả có trí tuệ nhìn thấu suốt bản chất của mọi sự vật. Lúc này gọi là thực chứng chân lý. Tức là thực chứng vô ngã. Pháp luyện tâm hay tu thiền này gọi là thiền quán Tứ Niệm Xứ, đã được đức Phật khẳng định là con đường duy nhất khiến chúng sinh được thanh tịnh, vượt qua sầu não, huỷ diệt các khổ của thân tâm, đưa đến hành xử chân chính, thực chứng Niết Bàn như Phật đã thuyết trong kinh Trung Bộ thuộc hệ Pali Nam Tông và kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc hệ Sansrit Bắc Tông.
    Trước nhất là thực chứng chân tâm hay tâm vô lậu nơi mình. Một trạng thái tâm ổn định vững bền. Tâm này là tâm mẹ, tâm gốc của các tâm sinh diệt. Từ sự thực chứng này khởi tu, phát triển và hoàn thiện phật tính. Đường lối này dùng quán Tứ Niệm Xứ làm nhân để chứng ngộ vô ngã. Hiểu được như vậy thì trong cuộc sống hằng ngày của mình, tất cả mọi hành vi nhằm đạt được mục đích đó đều được gọi là thiền. Dĩ nhiên, thiền toạ rất cần thiết nhưng tránh bệnh nghề nghiệp và lợi dụng.
    Riêng thiền phái Trúc Lâm đã mượn pháp luyện tâm bắt nguồn từ Bồ Đề Đạt Ma Tổ Sư là: "Trực chỉ chân tâm, kiến tính thành Phật" để tỏ tâm mình, để hiểu kinh phật và tu theo kinh phật đạt đến chỗ đại giác. Từ chỗ kiến tính mà khởi tu phát triển, hoàn thiện phật tính. Đường lối này dùng kiến tính làm nhân để chứng ngộ vô ngã. Phương pháp này được áp dụng cho tất cả mọi người có nhân duyên, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Và khuyến khích các thiền giả phải học rộng kiến thức kinh điển cũng như kiến thức ở đời để phát huy đạo phật phục vụ cho đời. Đây là điểm nổi bật đặc biệt của thiền phái này. Đường lối thiền này ngoài việc giúp cho thiền giả được giải thoát, còn thúc đẩy, khuyến khích hành giả ứng dụng trí tuệ giải thoát giúp hoàn thành nhiệm vụ mà cộng đồng đang đòi hỏi, nâng cao đời sống đạo đức và tâm linh cho nhân dân. Nó được hình thành và phát triển từ một vị minh quân, một vị Thánh Vương Trần Nhân Tông của Việt Nam cách đây hơn 700 năm. Ngài đã chọn núi Yên Tử để khai sinh thiền phái Trúc Lâm và cũng là trung tâm đầu não lãnh đạo phật giáo thời bấy giờ.
    Phật giáo trong thời kỳ này lại do một vị minh vương, vị Thánh Vương chính pháp chứng đạo lãnh đạo tinh thần các tu sĩ và lãnh đạo thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thì tinh thần, tư tưởng tu hành thời ấy hướng theo tư tưởng và hạnh sống của Trần Nhân Tông là lẽ đương nhiên.
    Trần Nhân Tông là người rất sáng suốt trong việc dùng giáo lý nhà phật để đem lại sự bình an cho cộng đồng. Sự bình an đó trước nhất đến từ sự no cơm ấm áo và đất nước hoà bình, trật tự, an ninh và đoàn kết dân tộc.
    Ngài đã dùng giáo lý nâng đỡ trí tuệ, đạo đức của triều đình và nhân dân lên một mức cao hơn.
    Ở mức cao nhất, Ngài thuyết pháp nâng đỡ cho họ thăng hoa trong cuộc sống, tức cuộc sống giải thoát. (Giải thoát tương đối và giải thoát tuyệt đối như kinh Kim Cang, kinh Bát Nhã và kinh Đại Bát Niết Bàn mà Phật đã thuyết).
    Ngài đã chủ động nắm lấy giáo pháp giống như người bắt rắn biết dùng cây nạng chẹn chặt vào cổ của nó, thì sẽ bắt được nó an toàn và hạnh phúc trong việc cần đến con rắn ấy. Đây là điều rất khó, vì thường thì người tu dễ bị pháp chuyển hơn là mình chuyển pháp.
    Do chứng đạt được tâm vô lậu và tuệ giải thoát nên Ngài đã lấy giáo lý của Phật làm giáo lý của Ngài. Ngài lấy trách nhiệm của tiên thánh làm trách nhiệm của Ngài. Ngài đã chủ động, tự tại chế pháp dạy dân, dạy các vị bồ tát là vua, quan, tướng lĩnh, cung nữ học và hành theo con đường bồ tát đạo. Tức là nương vào chính pháp, dùng chính pháp để sống và cống hiến trọn vẹn đời mình cho lợi ích của nhân dân.
    Ngài thúc đẩy các vị xuất gia ra sức học tập kinh điển, học tập các kiến thức thế gian để hoà nhịp vào công cuộc lo cho dân giàu, nước mạnh và xã hội đạo đức. Cho nên, trong buổi lễ truyền trao y bát tại chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội), Ngài đã trao cho nhị tổ Pháp Loa 20 hộp sách nội điển được chép bằng máu và 100 hộp sách ngoại điển.
    Nội điển được chép bằng máu có nghĩa là phải tôn kính chính pháp và coi chính pháp như chính mạng sống của mình, không được buông lơi, xem thường, nhưng việc học hỏi công việc và các kiến thức ở đời là rất quan trọng cần phải nỗ lực thật nhiều thì chính pháp mới thực sự có ích cho con người và xã hội. Chính pháp áp dụng để nâng cao đời sống con người, loài vật và các loài thực vật cũng như cảnh vật nữa! Chứ không phải chính pháp của Phật chỉ dành cho một số ít tu sĩ xuất gia. Chính pháp như vậy mới hữu dụng, có giá trị thực tiễn xứng đáng để mọi người học tập và ứng dụng. Dĩ nhiên, nó sẽ mở rộng khắp toàn cầu và tồn tại lâu dài theo sự sống của hành tinh này và có thể xa hơn nữa.
    Tu học với tinh thần nói trên mới đáp ứng được nhu cầu của nước Đại Việt lúc bấy giờ. Do nhiệm vụ của đất nước thời bấy giờ, Ngài đã sử dụng tinh thần phật giáo Đại Thừa theo đường lối Tổ Sư Thiền làm phương tiện để khai thác trí tuệ Phật nơi mình và khơi dậy trí tuệ, đạo đức tâm linh toàn dân cùng nhau xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống cộng đồng ngày một tiến bộ.
    Tất cả các thiền phái như Thảo Đường, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Mật Tông (không nhiều) đều hướng theo tinh thần, tư tưởng người lãnh đạo tối cao Trần Nhân Tông với triết lý "Cư Trần Lạc Đạo":
          "Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
          Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền
          Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm
          Đối cảnh vô tâm, hỏi chi thiền".
    - Ngài đã xây dựng cốt cách của người sống theo tinh thần Cư Trần Lạc Đạo là:
          "Mình ngồi thành thị
          Nết dụng sơn lâm"
    - Để xác định mục tiêu cho trí tuệ của bậc trí giả, Ngài khẳng định:
    Người trí không phải:
          "Lo hoán cốt, ước phi thân,
          Đan thần mới phục
          Nhắm trường sinh, về thượng giới
          Thuốc thảo còn đam".
    Mà là người:
"Sách Dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim."
    Ngài chí tâm chỉ dạy mọi người yêu tính sáng hơn quyền cao tối thượng và hơn mọi sự thành tựu khác.
    - Để xác định mục tiêu của tu thiền, tu Phật Ngài nói:
          Biết vậy! Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác.
          Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương
          Dứt hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác
          Tích nhân nghĩa, tu đạo đức
          Ai hay này chẳng Thích Ca"
    - Để giải quyết quan niệm tu tại gia, xuất gia vào núi rừng, Ngài khẳng định:
          "Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tất
          Sơn lâm chẳng cốc, hoạ kia thực cả đồ công".
    Điều này cũng đã được Ngài Xá Lợi Phất, đệ tử đệ nhất của Đức Phật Thích Ca khẳng định.
    - Để xác định Phật ở đâu? Ngài nói:
          "Vậy mới hay!
          Bụt ở trong nhà
          Chẳng phải tìm xa
          Nhân khuấy bổn nên ta tìm bụt
          Đến cốc hay chỉn bụt là ta".
    Tựu trung lại, Ngài dạy là phải kính trọng phật pháp, nương nơi phật pháp ứng dụng trí phật mà hoàn thành nghĩa vụ làm người đối với đời, đối với tổ quốc và sống giải thoát. Nương tựa vào chính pháp là nương vào tinh thần vô ngã, không tham ái ở đời, không sân hận, sống đời đạo đức, biết lo cho hạnh phúc của bá tính, biết tránh tốn kém cho nhân dân. Trên cơ sở ấy, cộng với các kiến thức chuyên môn, xã hội mà hoàn thành nghĩa vụ mọt thành viên trong gia đình, trong cộng đồng.

    Đối với đệ tử:
    Ngài rất mực chăm lo cho sự tiến bộ của họ trên con đường tu học, đặc biệt là động cơ tu học phải vì nhiệm vụ đòi hỏi của cộng đồng và mục tiêu giải thoát của chính mình. Ngài quan tâm giảng dạy cho họ kinh Đại Thừa và Ngữ Lục.
    Ngài cũng rất ân cần quan tâm đến sự tiến bộ của thị giả Bảo Sát. Trong giây phút cuối cùng, Ngài đã khai ngộ cho Bảo Sát bằng động tác lấy tay che miệng Bảo Sát. Như đã biết qua trong Thánh Đăng Lục nêu trên.

    Đối với cái chết và hậu thế:
    Như chúng ta đã thấy ở trên, Ngài đã giúp vua cha trong lúc trút hơi thở cuối cùng. Còn đối với người chị ruột là công chúa Thiên Thuỵ khi đau nặng muốn gặp Ngài trước lúc chết, trong Tam Tổ Thực Lục ghi: "Ngài xuống núi về kinh thành thăm và nói với Thiên Thuỵ rằng: "Thời tiết đến, chị cứ đi, nếu âm phủ có hỏi thì chị hãy bảo:
    "Xin đợi một lát, em tôi là Trúc Lâm Đại Sỹ sẽ đến".
    Đây là một kĩ thuật tâm linh đặc biệt giúp cho thần thức người sắp chết an tỉnh hoàn toàn để hoà vào vô lượng quang của chư phật, hay ít nhất cũng không hoảng hốt sợ hãi để tránh việc đầu thai vào những nơi kém cỏi. Còn đối với cái chết của Ngài, như đã thấy ở trên, Ngài đã an nhiên nằm nghiêng bên phải theo thế sư tử, đưa tâm thức vào vô lượng quang chư phật, tức trở về tính sáng tự nhiên của bản tâm mà an nhiên viên tịch. Thật tuyệt vời!
    Đối với các đời sau, có điều nên nhớ là những ngày cuối cùng trên núi Yên Tử, Ngài thường sống trong các hang đá. Khi thị giả Bảo Sát lo âu thắc mắc thì được Ngài giải thích là "Thời giờ của ta đã đến. Ta phải lập kế trường vãn". Chúng ta rất cảm kích tấm lòng của Ngài đối với chúng sinh đương thời và chúng sinh đời sau!
    * Qua các công đức nêu trên, chúng ta không thể phủ nhận Trần Nhân Tông là bậc trí tuệ Siêu Việt mà cả nước Đại Việt thời ấy nương tựa. Trí tuệ ấy biết dùng tâm Bồ Đề làm nhân, lòng từ bi làm gốc, phương tiện làm cứu cánh như trong kinh Đại Nhật (bộ kinh chính của Mật Tông) đức Phật Tỳ Lô Giá Na đã thuyết.

    Kết luận:
    Tôi xin được tóm lược một số điểm:
    1. Đối với giáo lý của phật tổ, Trần Nhân Tông là một hình ảnh ứng dụng trọn vẹn. Thời điểm tỏ ngộ được nguồn tâm vô nhiễm, vô lậu hay nguồn tâm bất sinh bất diệt là lúc được Tuệ Trung Thượng Sỹ khai ngộ trong dịp làm tang của người mẹ. Từ ấy, Ngài đã đi vào cửa thiền. Sự tỏ ngộ ấy đã soi sáng, hướng dẫn trong mọi hành vi, tư tưởng, trong sinh hoạt hằng ngày và đã đưa Ngài vào một đời sống thiền trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Thậm chí, ngay trong lúc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Nguyên, Ngài cũng chiến đấu trong trạng thái thiền là rất bình tĩnh và sáng suốt trong chỉ đạo các tướng lĩnh cũng như trực tiếp chỉ huy các trận đánh. Ngài đã sống trong cảnh giới thiền, tức cảnh giới của trạng thái tâm tĩnh lặng, tự do và sáng tạo.
    2. Chính từ sự tỏ ngộ này, Ngài đã nắm được cốt lõi và giá trị của giáo pháp Phật Tổ và Ngài tu tập theo giáo pháp ấy, nương vào giáo pháp ấy mà trị nước như vai trò của vị Chuyển Luân Thánh Vương đã nêu ở trên.
    3. Từ sự tỏ ngộ nguồn tâm vô nhiễm nơi chính mình, Ngài đã thực sự từ bỏ tham ái, sống đời đạo đức, học hành kinh điển Phật Tổ. Ngài có những hiểu biết và ứng xử phù hợp với chính pháp đối với việc dựng nước, giữ nước, đối với tổ tông gia đình, dòng họ, đối với sự vô thường của mạng sống con người, đối với nền hoà bình lâu dài của nước Đại Việt và khu vực.
    4. Trần Nhân Tông đã thể hiện lòng thương yêu và khoan dung vô hạn đối với dân, với nước, với tất cả mọi người chung quanh mình.
    5. Ngài hết sức bản lĩnh, khoan dung trong nội bộ hoàng tộc và đối với kẻ thù.
    6. Ngài đã rèn luyện được sự kiên nhẫn theo tinh thần Phật dạy, nhẫn được những việc khó nhẫn như đã thể hiện qua đường lối đối ngoại với nhà Nguyên.
    7. Ngài đã sống được đời sống định tâm đến giây phút cuối cùng và đã giúp cho mọi người có nhân duyên sống chung quanh Ngài cũng thực hiện đời sống bình tâm đến lúc chết.
    8. Ngài đã đạt một tuệ nhãn nhìn thấy các pháp bản chất là bất sinh, bất diệt như bài kệ tịch diệt nêu trên. Trí tuệ này là hành trang cho con người sống an nhiên tự tại giữa cõi đời tạm bợ, huyễn hoặc, vô thường và đầy đau khổ.
    9. Con đường hoàn thiện về trí tuệ và đạo đức của Ngài cũng đi qua các giai đoạn căn bản như các bậc đại giác ngộ khác, tạm chia làm bốn giai đoạn.
    - Giai đoạn 1: Nhân duyên tầm đạo: 16 tuổi, Ngài đã lén lên núi Yên Tử để tìm đường đi tu, nằm mộng thấy hoa sen nở trên rốn. Từ đó, Ngài tìm hiểu các kinh phật, ăn chay, trao đổi phật học với các thiền sư để xác định đường lối tu học chứng đạo.
    - Giai đoạn 2: Nhân duyên ngộ đạo: Đến khi được Tuệ Trung Thượng Sỹ ấn tâm và Ngài ngộ đạo từ đó.
    - Giai đoạn 3: Phát triển sự ngộ đạo qua đời sống thực tiễn: Trong thời kỳ làm vua, Ngài đã ứng dụng tinh thần đạo đức của Phật Đà.
    - Giai đoạn 4: Hoàn thiện sự ngộ đạo qua đời sống thực tiễn: Từ khi làm Thái Thượng Hoàng đến khi xuất gia hoàn toàn.
    10. Trần Nhân Tông đã có những ý tưởng tạo kế lâu dài cho con cháu Đại Việt nói riêng và cho tinh thần của chúng sinh nói chung, như đã đề cập ở trên mà ngày nay con cháu Đại Việt phải suy ngẫm ý tưởng đó.

    11. Bài học của ngài để lại cho các thế hệ sau là:
    * Người Phật tử nói riêng và con người nói chung phải biết kết hợp hài hoà giữa đạo và đời để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đạo đức và tâm linh.
    * Con người muốn hoàn thành bổn phận làm người một cách vinh quang và sống đời giải thoát là phải tầm đạo, ngộ đạo, phát triển và hoàn thiện sự ngộ đạo qua thực tiễn gắn liền với nhiệm vụ con người trong một khung cảnh xã hội đương thời đòi hỏi.
    * Con người nếu biết tôn trọng, cung kính chính pháp, nương vào chính pháp, coi mình chính là chính pháp để sống và cống hiến cho lợi ích cộng đồng thì sẽ đạt và sử dụng những kiến thức xã hội và kiến thức nghề nghiệp một cách tốt đẹp nhất, đem lại sự an vui cho mọi người, đem lại lợi lạc cho quốc gia, cho chính mình và an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.
    * Con người sống đúng như trí tuệ Đức Phật: Phải phấn đấu để có đủ bốn đức hạnh, gồm:
    a. Đức tin:
Tin tưởng vào giá trị đạo đức, tinh thần và tâm linh. Đặc biệt, Ngài đặt hết niềm tin vào trí tuệ Phật vì Đức Phật là một bậc giác ngộ, một bậc toàn giác mà chúng sinh cần phải nương vào trí tuệ Phật để hoàn thành thân phận của mình trong cộng đồng, vượt qua mọi khổ đau, đem lại hạnh phúc cho tha nhân và chính mình.
    b. Giữ gìn và thực hành mười điều thiện:
    * Thân thì từ bỏ vĩnh viễn sự sát sinh, trộm cướp, tà hạnh.
    * Miệng thì từ bỏ vĩnh viễn sự nói dối, sự nói ly gián, nói thô ác và nói thêu dệt.
    * Ý thì từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tham dục, nghĩ giận dữ và nghĩ tà kiến.
    c. Con người phải sống cuộc đời đạo đức, với tấm lòng trong sáng từ bi, hỉ xả không tội lỗi, có lòng trắc ẩn với nỗi khổ đau của cộng đồng, của cá nhân để cùng chia sẻ.
    d. Con người phải thực chứng tâm vô lậu để mở mang trí tuệ, phát triển lòng từ bi hỉ xả.
    * Trần Nhân Tông đã đưa tâm thức về an trú nơi tâm đạo và tuỳ duyên đưa ra những tình cảm, những tri thức, những lòng dũng cảm mà hoàn thành bổn phận làm người của mình một cách an nhiên tự tại. Ngài luôn ý thức và gìn giữ nguồn tâm trong sáng hơn xa ngọc vàng châu báu, hơn xa quyền uy tối thượng, khai thác nguồn tâm trong sáng của chính mình có lợi nhất cho mình và tha nhân.
    Ngài còn đi xa hơn nữa như trong kinh Phật dạy: "Ta đã tỏ cho đệ tử ta các phương tiện, để họ dùng có thể tạo nên từ thân thể "tứ đại giả hợp" này một thần thức khác đủ cả tứ chi và có khả năng thần thông. Đúng như một người rút chiếc tên trong cây sậy hay lưỡi kiếm khỏi vỏ, như con rắn lột xác. Tức là phải ý thức chiếc tên với cây sậy là hai vật khác nhau, ý thức lưỡi kiếm với vỏ kiếm khác nhau, con rắn với xác rắn là khác nhau...". Trần Nhân Tông đã làm được điều ấy.
    Trần Nhân Tông, một vị vua Việt Nam đã có khả năng ứng dụng sự khám phá vĩ đại về phật tính của Đức Phật để hoàn thành sứ mệnh của một vị thánh vương trong lúc làm vua, hoàn thành sứ mệnh của bậc chuyển pháp luân trong thời kỳ xuất gia và đã biết tận dụng cái gọi là chết để trở thành vô lượng quang, vô lượng thọ mãi mãi xuất hiện mọi nơi để hộ trì cho thế giới cần đến ánh sáng của chư phật, ánh sáng đạo đức và trí tuệ. Ngài là tấm gương sáng ứng dụng trí tuệ Phật mà tất cả những người có động cơ làm người đúng đắn đều phải suy ngẫm và noi theo, nhất là đối với phật tử.


Bốn Giai Đoạn
Của Trần Nhân Tông
    Con đường giải thoát của Vua Phật Trần Nhân Tông tạm chia làm bốn giai đoạn:
    Giai đoạn 1: Thời niên thiếu Ngài sinh ra như để làm phật. Sử ký có ghi:
                   "Có tinh anh của thánh nhân
                   Nên đạo mạo thuần tuý
                   Nhan sắc như vàng
                   Thể chất hoàn toàn
                   Thần khí tươi sáng
                   Được tên là Kim Phật
                   Vai phải có nốt ruồi đen
                   Có thể cáng đáng việc lớn".
                   Thánh đăng cũng viết:
                   "Vua thông minh, đa năng hiếu học
                   Xem trải mọi kinh sách
                   Thông nội ngoại điển".
    Trong Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ cũng ghi:
    "Khi lớn Ngài học thông tam giáo và hiểu sâu phật điển, cả thiên văn, lý số, binh pháp, y thuật…"
    Thánh Đăng còn ghi:
    "Năm mười sáu được lập làm thái tử
    Ngài từ chối và nhường cho em ba lần nhưng cũng không được".
    Thời kỳ đầu của Ngài là ra sức học tập rộng rãi
    Học để làm vua và làm người đạo đức
    Nhưng Ngài học và chú trọng nhiều đến đạo đức giải thoát giác ngộ.

    Giai đoạn 2: Giai đoạn trưởng thành
    Thời kỳ từ 16 tuổi đến 36 tuổi
    Vua cha sắc phong hoàng tử và lập hoàng phi cho Ngài
    Ngài miễn cưỡng phục mệnh vua cha
    Nhưng lòng thường để tâm vào phật học và thiền
    Ngài lên ngôi hoàng đế năm 21 tuổi
    Đây là thời kỳ đế quốc Nguyên Mông hung hãn nhất thế giới
    Chuẩn bị xâm lăng Đại Việt
    Lực lượng quân sự của Nguyên Mông như đá
    Lực lượng quân sự của Đại Việt như trứng!
    Ngài đoàn kết được triều đình, quân đội và toàn dân
    Nên Ngài đã lập được chiến công hiển hách có một không hai
    Năm ấy Ngài mới 29 tuổi!

    Sau chiến thắng
    Ngài ra sức lãnh đạo đất nước và dân tộc
    Xây dựng lại đất nước đã điêu tàn vì chiến tranh xâm lược
    Cho đến năm 36 tuổi, Ngài truyền ngôi cho con
    Để chuẩn bị cho thời kỳ đi sâu vào đời sống đạo
    Giai đoạn thứ hai này
    Ngài ra sức thực hành bổn phận tự nhiên của con người
    Là xây dựng hạnh phúc riêng của bản thân
    Và hạnh phúc chung cho toàn dân
    Ngài vừa cống hiến vừa tận hưởng hạnh phúc trần tục
    Gần như hoàn chỉnh trọn vẹn
    Quả thật một tấm gương hiếm hoi!

    Giai đoạn 3: Giai đoạn ở ẩn
    Từ 36 tuổi đến 42 tuổi
    Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị triệt để giải thoát
    Về ẩn cư tại phủ Thiên Trường (Ninh Bình)
    Và làm Thái Thượng Hoàng
    Trong thời kỳ này
    Ngài chuẩn bị cắt đứt tất cả mọi sợi dây ràng buộc
    Như gia đình, triều đình, hoàng hậu và cung phi
    Cùng với cảnh sống của bậc đế vương
    Quả thật là khó!

    Giai đoạn 4: Xuất gia hoàn toàn
    Từ năm 42 tuổi đến cuối đời là năm 51 tuổi tịch diệt
    Giai đoạn này Ngài từ biệt Hoàng Thái Hậu, các cung phi
    Và tất cả cảnh sống của bậc đế vương để khoác y tu hành
    Như một tỳ kheo
    Trong thời kỳ này Ngài tự xuất gia, tự tu hành, tự sống hạnh đầu đà
    Tức đi bộ và truyền đạo khắp cả nước
    Ngài dạy cho dân, cho triều đình về ngũ giới, thập thiện
    Ngài đi đây đó để vận động phá bỏ các việc thờ cúng mê tín dị đoan
    Ngài lấy kho của triều đình để ban phát cho nhân dân những nơi đói khổ
    Ngài dạy tăng tu hành chân chính đúng chánh pháp…
    Cuối cùng, Ngài lên núi Ngoạ Vân viên tịch
    Trước khi lên núi viên tịch
    Ngài ghé về kinh đô Thăng Long thăm người chị ruột là công chúa Thiên Thụy sắp qua đời
    Rồi hôm sau dùng bữa cơm chay cuối cùng với Hoàng Thái Hậu tại ngôi chùa gần chân núi Yên Tử
    Trong đêm, Ngài nhờ hai đệ tử dìu lên núi Ngoạ Vân
    Quãng đường gần 10km từ nơi dùng bữa cơm cuối cùng với Hoàng Thái Hậu lên đỉnh núi cao hơn 1000m.

    Trước giờ phút thu thần tịch tịnh
    Ngài còn khai ngộ cho đệ tử thân cận là Bảo Sát thầm nhận tính không vạn pháp.
    Ngài hoà vào ánh hào quang chư phật
    Cuộc đời của Ngài trọn vẹn theo từng giai đoạn cho đến phút cuối cùng
    Cuộc đời của Ngài trọn vẹn theo từng giai đoạn.
    Cuộc đời của Ngài là bản kinh thực tiễn vô cùng quý báu cho mỗi chúng ta
    Trên thế gian này còn tìm đâu nữa
    Hãy lấy tư tưởng và cuộc đời của Ngài
    Dựng thành lý luận và thực tiễn
    Làm nền tảng trên con đường sống đạo
    Hãy thiền quán về tư tưởng và cuộc đời của Ngài.
 27/01/2001 (16 tháng Chạp)
Hiện Tướng Xuất Gia

Có nhiều người hỏi tôi rằng
Tại sao Trần Nhân Tông bỏ đời sống Thái Thượng Hoàng để đi tu?

Đây là sự trả lời của tôi:
Thế nào là đi tu?
Tụng kinh là tu?
Ngồi thiền là tu?
Niệm phật là tu?
Cạo đầu là tu?
Mặc áo cà sa là tu?
Ăn chay là tu?
Biết cúng là tu?
Học tam tạng kinh điển là tu?
Thờ tượng phật hay bồ tát là tu?
Sửa tâm là tu?
Ở chùa là tu?
Làm từ thiện là tu?
Nuôi trẻ con mồ côi hay tàn tật là tu?
Nuôi người già không nơi nương tựa là tu?
Trần Nhân Tông “đi tu” để “chứng đạo”?
Chứng đạo để làm gì?
Hay để thành phật?
Thành phật để làm gì?
Để giữ nước chăng?
Hay để cải cách lại đạo phật cho có tính Việt Nam?
Hay để lập “Thiền Phái Trúc Lâm” thuần tuý “thiền” Việt Nam?
Hay để dùng đạo phật thắng giặc Nguyên Mông?
Hay “để tính kế lâu dài” cho con cháu?
Ngài “đi tu” là để xây dựng hòa khí với lân bang chăng?
Hay để giáo dục hoàng tộc?
Hay để giáo dục và an ủi nhân dân?
Hay để tạo cho nhân dân tăng thêm sức mạnh tinh thần thông qua đức tin với đạo phật?
Ngài đã sử dụng khả năng nhận biết và ý chí như thế nào trong các giai đoạn của cuộc đời?
Nhân cách của ngài là gì?
Có phải nhân cách cao quý nhất của con người là dám từ bỏ cái khó từ bỏ nhất không?
Một con người nhân cách cao vời vợi như vậy chẳng lẽ lại còn bị bệnh ham chứng đạo sao?
Có cần xem xét và đánh giá lại các kết luận về Ngài trước đây không?

Tạm biệt.
DT


Cư Trần Lạc Đạo
    1. Trần Nhân Tông có cần xuất gia tu hành và theo hạnh đầu đà không?
    Qua các tài liệu còn lưu lại, ta được biết Ngài đã thấu hiểu con đường của Đức Phật là quay vào trong để chứng ngộ giải thoát khi Ngài đang là một vị hoàng đế, chuẩn bị đối đầu với sự xâm lược của quân phương Bắc Nguyên Mông mạnh nhất và hung hãn nhất loài người lúc bấy giờ, cách đây khoảng gần 700 năm.
    2. Nhưng khi chiến thắng quân xâm lược hung hãn Nguyên Mông một cách anh dũng và trọn vẹn, Ngài truyền ngôi cho con là Hoàng đế Trần Anh Tông lúc Ngài mới có 36 tuổi. Trong thời kì làm Thái Thượng Hoàng, Ngài có thì giờ đắm chìm trong đạo mà nhìn ngắm thế gian. Ngài chuẩn bị cho sức sáng tạo mới mà Đại Việt đòi hỏi.
    3. Sau sự thưởng thức đời sống ngộ đạo tâm này, Ngài cũng đã sẵn sàng cho cuộc hành trình mới mà người thế gian hay sống bằng con mắt thịt, bằng trí tuệ bên ngoài không thể nào hiểu nổi Ngài.
    4. Ngài quyết định tự xuất gia. Tôi đến thăm nơi Ngài xuất gia xưa kia là Hành Cung Vũ Lâm, nay là huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Được biết, nơi này là điểm tập hợp cuối cùng của Ngài với các tướng lĩnh và đại biểu các tầng lớp nhân dân để quyết định phản công quân Nguyên Mông. Sau chiến thắng ấy, Ngài quyết định trở lại thăm nơi này và quyết định tuyên bố xuất gia theo Phật. Nay còn đền thờ lưu niệm. Vừa là người đã ngộ tâm đạo, vừa là người suốt đời chỉ sống cống hiến cho dân, cho nước nên việc quyết định tự xuất gia của Ngài cũng do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của Đại Việt thời bấy giờ.
    5. Việc xuất gia rất có ý nghĩa:
    Thời kì này là thời kì hoà bình sau chiến thắng quân Nguyên Mông. Con trai Ngài là Hoàng đế Trần Anh Tông  đã có bản lĩnh trị nước nên cũng là lúc Ngài thực hiện cuộc sống thanh thản tâm thân lúc tuổi bắt đầu xế chiều.
    Sau sáu năm làm Thái Thượng Hoàng, Ngài cũng chuẩn bị cho cuộc thưởng thức đời sống thánh nhân theo kiểu truyền thống thánh nhân trên hoàn vũ. Đây là ý nghĩa sống đạo, sống bên trong, sống với tâm thanh tịnh bên trong, Niết Bàn tại tâm. Đây là hình ảnh của Đức Phật.
    Qua việc tự xuất gia, sống hạnh đầu đà cũng để xây dựng một đạo phật phù hợp với văn hoá và đạo lí Đại Việt còn có giá trị nhiều cho ngày nay, tức Ngài thiết kế đường lối lâu dài cho đạo phật Việt Nam theo tinh thần đạo và đời không thể tách biệt. Qua cuộc đời, qua nhiệm vụ đòi hỏi của từng thời kì của dân tộc mà đạo biểu thị mình, đồng thời đời cũng nương vào đạo mà phát triển và vui hưởng một cách giải thoát niềm vui của vô thường.
    Ngài tham gia đóng góp cho đời trên hình ảnh người tu sĩ đạo phật. Ngài như vị phật vừa hoằng hoá độ sinh, vừa thực hiện nghĩa vụ với đời đang đòi hỏi ở Ngài. Mọi hành xử của Ngài phù hợp với đòi hỏi tự nhiên của Đại Việt và không vì tính cách cá nhân, cũng một phần Ngài đã quá đủ cho nhu cầu cuộc sống cá nhân, Ngài không có nhu cầu nào khác ngoài thưởng thức tâm đạo trong sứ mệnh người công dân yêu nước, yêu cộng đồng của mình. Ngài quả là chim đại bàng vương có đôi cánh đạo và đời hoàn chỉnh, mạnh khoẻ và lộng lẫy lạ thường!
    6. Như vậy, việc xuất gia hay không xuất gia không là vấn đề riêng của Ngài mà nghiêng về đòi hỏi của dân tộc nhiều hơn. Ngài đã biết lấy lòng dân làm lòng của Ngài như ông nội của Ngài là Hoàng đế Trần Thái Tông trước kia đã làm vậy.
    Do vậy nên mới có "Cư trần lạc đạo phú".
    7. Có học giả xa xưa cho rằng Ngài làm bài "Cư trần lạc đạo phú" trong thời kì làm Thái Thượng Hoàng. Nếu điều này là đúng thì hoá ra Ngài tự mâu thuẫn với chính Ngài sao? Vì bài này khẳng định tu hành hay sống đạo cốt lõi là ngộ bản tâm thuần khiết nơi chính mình, tức "Phật ở trong nhà chẳng phải tìm xa". Bài này phải được làm thời Ngài đã xuất gia, vì mọi hành vi của Ngài là để giáo dục mọi người đương thời và mai sau. Nghĩa là việc tu hành không nhất thiết phải xuất gia hay tại gia, không nhất thiết phải sống trên núi non hay thành thị, "sở dĩ ta làm như vậy là do yêu cầu phồn vinh lâu dài của Đại Việt đó thôi".
    8. Ngài là mẫu người giác ngộ giải thoát sống theo con đường của Phật. Cách thể hiện của Ngài không hoàn toàn giống phật tổ, nhưng vị giải thoát giác ngộ là một. Ngài tận hưởng trong nội tâm cho riêng mình, và Ngài tận hưởng bên ngoài cõi đời trong việc hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ tổ quốc và dân tộc đòi hỏi, hoàn thành một cách đầy hương vị tự tại của người đã giải thoát. Việc thưởng thức mùi vị giải thoát cao nhất ở Ngài được thể hiện qua những ngày cuối đời, và lúc từ biệt đệ tử để đi vào sự yên nghỉ vĩnh hằng như chúng ta đã biết qua nhiều tài liệu.
    9. Đây là mẫu người ngộ đạo, sống đạo hoàn chỉnh, tuyệt vời, hùng dũng của dân tộc Việt Nam cách nay gần 700 năm. Chưa có một vị hoàng đế nào của nhân loại sống đẹp như vậy cho đến tận hôm nay. Người Việt Nam cần phải làm sáng tỏ ngày một nhiều hơn di sản văn hoá phi vật thể này, góp phần làm sáng tỏ đạo đức và đạo lý dân tộc cho con cháu giống Việt noi theo, cũng góp phần xây dựng hướng ra cho những ai quan tâm đến đời sống đạo.
Bangkok -Thailand,
28/11/2001


Trần Nhân Tông
Nhà Văn Hoá Lớn - Vị Vua Phật

    Kính thưa quý vị đại biểu đại diện các cấp chính quyền
    Kính thưa các nhà văn hoá, các nhà khoa học
    Kính thưa các đạo hữu
    Kính thưa toàn thể quý vị
    Tôi được biết, trong Hội thảo khoa học này, nhiều bản tham luận của các nhà khoa học, các nhà văn hoá, các hoà thượng, thượng toạ... đã làm sáng tỏ công đức vô lượng của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trên nhiều mặt:
    - Ngài là một thi sĩ trác việt.
    - Ngài là một nhà văn hoá lớn tiêu biểu cho trí tuệ và đạo đức Việt Nam.
    - Ngài là một vị tướng kiệt xuất, một nhà chiến lược quân sự kỳ tài.
    - Ngài là một vị vua anh minh.
    - Ngài là một giáo chủ tức đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm do Ngài sáng lập...
    Vâng, như vậy là các vị đã đề cập khá đầy đủ. Vậy tôi chỉ xin nói đến một khía cạnh rất nhỏ, Ngài là một vị Vua Phật.
    Học Phật, ai cũng biết gần 26 thế kỷ trước, thái tử Tất Đạt Đa vì phát hiện ra quy luật sinh - lão - bệnh - tử mà chối việc lên ngôi hoàng đế để đi tìm chân lý. Cuối cùng Ngài ngộ đạo, trở thành một đấng toàn tri, đại giác. Ngài là vị Phật đầu tiên của thế gian. Và dẫn dắt thế gian vào con đường đạo nghĩa 2.500 năm qua.
    Và sau đó có một vị vua trong lịch sử Ấn Độ cổ đại nổi tiếng là ác vương. Người đó là hoàng đế Asôka mà ta thường gọi là A Dục Vương.
    Trong lịch sử Ấn Độ, A Dục Vương là nhân vật có thật. Ông có quá trình chuyển hoá từ hung ác sang từ bi. Từ một ông vua hiếu chiến, đa sát thành một ông vua nhân từ và hộ pháp. A Dục không chỉ là vị vua đầu tiên thống nhất đất nước Ấn Độ, mà còn là vị vua đầu tiên bảo hộ phật pháp.
    Tương tự như vậy, nước ta có vị vua đầu tiên là một thiền sư, một vị Vua Phật. Đó là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Song trên nhiều bình diện vua Phật Trần Nhân Tông có những ưu điểm khác với hoàng đế Asôka.
    Trước hết, Ngài là một người toàn thiện. Ngài có lòng mộ Phật từ nhỏ và khi sắp được lập làm hoàng thái tử, Ngài đã xin với phụ vương Trần Thánh Tông nhường ngôi thái tử cho các em, và tâm nguyện của Ngài là được xuất gia, Ngài đã bỏ cung điện tìm đến các vị thiền sư, nhưng bị ép trở về.
    Buộc phải lên ngôi vua, Ngài đã làm hết sức mình để cho đất nước được thái bình, dân cư an lạc.
    Năm Ngài 27 tuổi, giặc Mông Thát tràn vào xâm lăng với 50 vạn tên, với sức mạnh long trời lở đất, Ngài đã tỏ uy lực đại hùng, lãnh đạo toàn dân và toàn quân đánh thắng giặc dữ.
    Nhớ khi bộ tướng của Ngài chém được đầu Toa Đô, đem đến dâng chiến công dưới thuyền ngự. Thương cho viên tướng giặc vì vô minh mà lâm vào tội ác, đến nỗi bị đoạ chết không được toàn thây, Ngài liền cởi tấm áo bào đang mặc, quẳng cho bọc thủ cấp Toa Đô. Hành vi của Ngài thực đã vượt ra ngoài sự đối đãi của thế gian.
    Đất nước thanh bình được ít lâu, Ngài lại nhường ngôi vua cho con để chuyên về việc tu đạo. Kế tục tư tưởng của các bậc tiền bối như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Quốc Tung, Ngài xuất gia lên Yên Tử tu phật và lập hẳn ra một dòng thiền là Thiền Trúc Lâm - một dòng thiền thuần Việt.
    Nước Đại Việt xưa và nước Việt Nam ta ngày nay thật đáng tự hào vì có một vị Vua Phật như đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.
    Ngài là bậc minh triết, là bậc trí huệ siêu việt, không thể nói hết công đức vô lượng của Ngài đối với dân tộc và đạo pháp, tôi chỉ xin đúc kết lại một số điều sau đây mà tôi hết sức tâm đắc:
    1. Đối với giáo lý của phật tổ, Ngài là một hình ảnh ứng dụng trọn vẹn. Thời điểm tỏ ngộ được nguồn tâm vô nhiễm, vô lậu hay nguồn tâm bất sinh bất diệt là lúc được Tuệ Trung Thượng sỹ khai ngộ trong dịp làm tang của người mẹ. Từ ấy, Ngài đã đi vào cửa thiền. Sự tỏ ngộ ấy đã soi sáng, hướng dẫn trong mọi hành vi, tư tưởng, trong sinh hoạt hàng ngày và đã đưa Ngài vào một đời sống thiền trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Thậm chí, ngay trong lúc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Nguyên, Ngài cũng chiến đấu trong trạng thái thiền, nghĩa là rất bình tĩnh và sáng suốt trong chỉ đạo các tướng lĩnh cũng như trực tiếp chỉ huy các trận đánh. Ngài đã sống trong cảnh giới thiền, tức cảnh giới của trạng thái tâm tĩnh lặng, tự do và sáng tạo.
    2. Chính từ sự tỏ ngộ này, Ngài đã nắm được cốt lõi và giá trị của giáo pháp phật tổ và Ngài tu tập theo giáo pháp ấy, nương vào giáo pháp ấy mà trị nước như vai trò của vị Chuyển Luân Thánh Vương đã nêu ở trên.
    3. Từ sự tỏ ngộ nguồn tâm vô nhiễm nơi chính mình, Ngài đã thực sự từ bỏ tham ái, sống đời đạo đức, học hành kinh điển phật tổ. Ngài có những hiểu biết và ứng xử phù hợp với chính pháp đối với việc dựng nước, giữ nước, đối với tổ tông, gia đình, dòng họ, đối với sự vô thường của mạng sống con người, đối với nền hoà bình lâu dài của nước Đại Việt và khu vực.
    4. Ngài đã thể hiện lòng thương yêu và khoan dung vô hạn đối với dân, với nước, với tất cả mọi người chung quanh Ngài.
    5. Ngài hết sức bản lĩnh, khoan dung trong nội bộ hoàng tộc và đối với kẻ thù.
    6. Ngài đã rèn luyện được sự kiên nhẫn theo tinh thần Phật dạy, nhẫn được những việc khó nhẫn như đã thể hiện qua đường lối đối ngoại với nhà Nguyên.
    7. Ngài đã sống được đời sống định tâm đến giây phút cuối cùng và đã giúp cho mọi người có nhân duyên sống chung quanh Ngài cũng thực hiện đời sống bình tâm cho đến lúc chết.
    8. Ngài đã đạt một tuệ nhãn nhìn thấy các pháp bản chất là bất sinh, bất diệt như Ngài đã nêu trong bài kệ “Thị Tịch". Trí tuệ này là hành trang cho con người sống an nhiên tự tại giữa cõi đời tạm bợ, huyễn hoặc, vô thường và đầy đau khổ.
    9. Con đường hoàn thiện về trí tuệ và đạo đức của Ngài cũng đi qua các giai đoạn căn bản như các bậc đại giác ngộ khác, tạm chia làm bốn giai đoạn.
    - Giai đoạn 1: Nhân duyên tầm đạo: 16 tuổi, Ngài đã lén lên núi Yên Tử tìm đường đi tu, nằm mộng thấy hoa sen nở trên rốn. Từ đó, Ngài tìm hiểu các kinh Phật, ăn chay, trao đổi phật học với các thiền sư để xác định đường lối tu học chứng đạo.
    - Giai đoạn 2: Nhân duyên ngộ đạo: Đến khi được Tuệ Trung Thượng sỹ ấn tâm và Ngài ngộ đạo từ đó.
    - Giai đoạn 3: Phát triển sự ngộ đạo qua đời sống thực tiễn: Trong thời kỳ làm vua, Ngài đã ứng dụng tinh thần đạo đức của Phật Đà.
    - Giai đoạn 4: Hoàn thiện sự ngộ đạo qua đời sống thực tiễn: Từ khi làm Thái Thượng Hoàng đến khi xuất gia hoàn toàn.
    10. Ngài đã có những ý tưởng tạo kế lâu dài cho con cháu Đại Việt nói riêng và cho tinh thần của chúng sinh nói chung như đã đề cập ở trên mà ngày nay con cháu Đại Việt phải suy ngẫm ý tưởng đó.
    11. Bài học của Ngài để lại cho các thế hệ sau là:
    * Người Phật tử nói riêng và con người nói chung phải biết kết hợp hài hoà giữa đạo và đời để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đạo đức và tâm linh.
    * Con người muốn hoàn thành bổn phận làm người một cách vinh quang và sống đời giải thoát là phải tầm đạo, ngộ đạo, phát triển và hoàn thiện sự ngộ đạo qua thực tiễn gắn liền với nhiệm vụ con người trong một khung cảnh xã hội đương thời đòi hỏi.
    * Con người biết tôn trọng, cung kính chính pháp, nương vào chính pháp, coi mình là chính pháp để sống và cống hiến cho lợi ích cộng đồng, thì sẽ đạt và sử dụng những kiến thức xã hội và kiến thức nghề nghiệp một cách tốt đẹp nhất, đem lại sự an vui cho mọi người, đem lại lợi lạc cho quốc gia, cho chính mình và an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.
    * Con người sống đúng như trí tuệ đức Phật: Phải phấn đấu để có đủ bốn đức hạnh gồm:
    a. Đức tin: Tin tưởng vào giá trị đạo đức và tâm linh. Đặc biệt, Ngài đặt hết niềm tin vào trí tuệ Phật vì đức Phật là một bậc giác ngộ, một bậc toàn giác mà chúng sinh cần phải nương vào trí tuệ Phật để hoàn thành thân phận của mình trong cộng đồng, vượt qua mọi khổ đau, đem lại hạnh phúc cho tha nhân và chính mình.
    b. Giữ gìn và thực hành mọi điều thiện:
    * Thân thì từ bỏ vĩnh viễn sự sát sinh, trộm cướp, tà hạnh.
    * Miệng thì từ bỏ vĩnh viễn sự nói dối, sự nói ly gián, nói thô ác và nói thêu dệt.
    * Ý thì từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tham dục, nghĩ giận dữ và nghĩ tà kiến.
    c. Con người phải sống cuộc đời đạo đức, với tấm lòng trong sáng từ bi hỉ xả, không tội lỗi, có lòng trắc ẩn với nỗi khổ đau của cộng đồng, của cá nhân để chia sẻ.
    d. Con người phải thực chứng tâm vô lậu để mở mang trí tuệ, phát triển lòng từ bi hỉ xả.
    * Trần Nhân Tông đã đưa tâm thức về an trú nơi tâm đạo và tuỳ duyên đưa ra những tình cảm, những tri thức và lòng dũng cảm mà hoàn thành bổn phận làm người của mình một cách an nhiên, tự tại. Ngài luôn ý thức và gìn giữ nguồn tâm trong sáng hơn xa ngọc vàng, châu báu, hơn xa quyền uy tối thượng, khai thác nguồn tâm trong sáng của chính mình có lợi nhất cho mình và tha nhân.
    Ngài còn đi xa hơn nữa như trong kinh Phật dạy: "Ta đã tỏ cho đệ tử ta các phương tiện, để họ dùng có thể tạo nên từ thân thể "tứ đại giả hợp" này mọi thần thức khác đủ cả tứ chi và có khả năng thần thông. Đúng như một người rút chiếc tên trong cây sậy hay lưỡi kiếm khỏi vỏ, như con rắn lột xác. Tức là phải ý thức chiếc tên với cây sậy là hai vật khác nhau, ý thức lưỡi kiếm với vỏ kiếm khác nhau, con rắn với xác rắn là khác nhau". Trần Nhân Tông đã làm được điều ấy.
    Trần Nhân Tông, một vị vua Việt nam đã có khả năng ứng dụng trí tuệ của đức Phật, để hoàn thành sứ mệnh của một vị thánh vương trong lúc làm vua, hoàn thành sứ mệnh của bậc chuyển pháp luân trong thời kỳ xuất gia và đã biết tận dụng cái gọi là chết để trở thành vô lượng quang, vô lượng thọ, mãi mãi xuất hiện mọi nơi để hộ trì cho thế giới cần đến ánh sáng của chư phật, ánh sáng đạo đức và trí tuệ. Ngài là tấm gương sáng ứng dụng trí tuệ Phật mà tất cả những người có động cơ làm người đúng đắn đều phải suy ngẫm và noi theo. Lại càng đặc biệt hơn đối với người Phật tử!

    Trân trọng kính chào!


Dân Tộc - Tín Ngưỡng - Pháp Trị

    Nhân dịp ngày giỗ đức Vua Phật Trần Nhân Tông
    Tôi xúc động về cuộc đời của Ngài quá đỗi!
    Đời người có hai việc trọng đại
    Đó là sống và chết

    Trong một lần nói chuyện với gần hai trăm phật tử
    Tại một ngôi chùa ở Sài Gòn
    Có Phật tử hỏi tôi rằng:
    Tu cũng chết, không tu cũng chết
    Vậy thì tu chi hỡi Thầy?

    Tôi trả lời: Đúng thế, nhưng nếu biết sống hợp Đạo thì sống sẽ ra sống và chết sẽ ra chết.
    Ở Việt Nam có Vua Trần Nhân Tông cách nay gần bẩy trăm năm đã làm được như thế.
    Công thức sống của Ngài là:
    Dân Tộc, Tín Ngưỡng, Pháp Trị
    Đối với Ngài, dân tộc và tổ quốc là trên hết
    Nhưng dân tộc ấy phải có tín ngưỡng để thăng hoa
    Dân tộc và tổ quốc ấy phải được cai trị bằng chính pháp.

    Về dân tộc:
    Cái quý nhất của một dân tộc là không khổ đau vì mất độc lập tự do
    Cái quý thứ hai là không khổ đau vì mất bình đẳng và mất nhân phẩm
    Cái quý thứ ba là không khổ đau vì nghèo đói
    Cái quý thứ tư là tinh thần được thoải mái dưới chính sách lãnh đạo của quốc gia
    Đó là những sự quý báu căn bản của một dân tộc
    Trong thời đại cai trị của nhà Trần
    Đặc biệt dưới thời Vua Phật Trần Nhân Tông trị nước
    Ngài đã đáp ứng cho nhân dân mình được những điều quý báu ấy.

    Về tín ngưỡng:
    Tín ngưỡng thuộc về đức tin
    Không thể dùng tri thức mà phân tích được
    Tri thức có mặt thì đức tin vắng bóng
    Tin những gì?
    Trước nhất tin vào tấm lòng và trí tuệ của những bậc vĩ nhân.
    Họ thực sự hiến dâng đời mình cho hạnh phúc của dân tộc và nhân loại đến lúc họ phải ra đi.
    Nhưng tấm lòng, trí tuệ và sự cống hiến của các    Ngài mãi mãi bất tử
    Trong lòng mọi người.
    Vì vậy mọi người kính trọng và tôn thờ
    Và những tấm lòng vàng ấy
    Mãi mãi trở thành niềm khát khao của cộng đồng
    Nó khó trở thành hiện thực trở lại nên nó dễ thành biểu tượng cầu cúng.
    Niềm tin thứ hai là
    Trong cuộc sống và chung quanh cuộc sống của con người
    Có một thực tại tồn tại vận hành không phụ thuộc vào tri thức và ý chí
    Không phụ thuộc vào ngôn ngữ và chữ viết
    Nó tự vận hành rất thông minh và cân bằng mọi việc
    Con người có khả năng cảm nhận nó
    Nhưng không biết làm sao diễn tả hay nói lên được
    Con người cảm nhận được rằng
    Nếu không có thực tại sống động và mầu nhiệm này
    Thì con người giống như cái cây đã bị bật rễ nên không còn sức sống
    Đức tin như một bộ rễ chuyển sức sống cho cây phát triển, đức tin đã giúp cho tâm hồn con người thăng hoa!
    Cao hơn nữa sẽ trở thành bất tử!
    Đức tin còn được gọi là tín ngưỡng!
    Con người thể hiện đức tin hay tín ngưỡng bằng nhiều cách
    Tuỳ theo căn cơ của mình.
    Họ có thể thể hiện qua thờ Mẫu, thờ Thánh, Thần, Phật, Chúa…
    Do vậy, các nhà lãnh đạo sáng suốt phải quan tâm hướng dẫn
    Cho quần chúng thực hiện đức tin đúng chính pháp
    Đức Vua Phật Trần Nhân Tông đã làm việc ấy
    Rất tích cực và rất thành công cách nay gần 700 năm!
    Mặc dù Ngài theo con đường của đức Phật.
    Đó là căn cơ thượng đẳng của Ngài
    Nhưng Ngài cũng tôn trọng các tôn giáo khác
    Và Ngài cũng đối xử bình đẳng với các tôn giáo
    Và các loại tín ngưỡng chính đáng của các dân tộc
    Thực hiện tốt niềm tin tín ngưỡng
    Sẽ giúp cho tâm hồn nở hoa
    Và ấy chính là chất keo thương yêu đoàn kết
    Không gì lay chuyển được của một dân tộc
    Nó làm cho con tim mỗi người tràn đầy yêu thương
    Trong khi đó, tri thức dễ đưa lại hận thù mất đoàn kết!
    Vì vậy, một đất nước muốn có sự phát triển bền và đẹp cần phải trợ duyên và hướng dẫn cho tín ngưỡng phát triển.
    Nhưng phải ý thức rằng
    Các hội tôn giáo không phải là Đạo và tín ngưỡng. Nó là một tổ chức cho những người có khuynh hướng về một niềm tin
    Gặp gỡ và cùng nhau chia sẻ đức tin
    Nó là phương tiện cho con người, cho các tín đồ sử dụng
    Để thoả mãn phần nào về đức tin của mình 
    Và đặc biệt nó sẽ là phương tiện tốt cho người lãnh đạo
    Hướng nhân dân của mình thực hiện đức tin hay tín ngưỡng
    Đúng chính pháp thông qua nó.
    Niềm tin thứ ba cũng vô cùng quan trọng
    Tin vào trí tuệ của các đấng giác ngộ
    Đặc biệt là Đức Phật.
    Tại sao lại tin vào Ngài?
    Vì Ngài ở trong thực tại thế gian giác ngộ về thực tại
    Vì giác ngộ thực tại nên tâm Ngài là gương trong in bóng của thực tại
    Nên Ngài sáng suốt dìu dắt chúng sinh tự tại trong thực tại
    Vượt ra khỏi đau khổ và Niết Bàn
    Chí ít cũng thức tỉnh trước cái gọi là khổ đau
    Để nghiêng về phía Niết Bàn.
    Phật giác ngộ như vậy
    Nên Phật nhìn con người, thế giới và cuộc sống
    Bằng cả nhục nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, thiên nhãn và Phật nhãn
    Như vậy, Phật giúp cho chúng sinh giải quyết các vấn đề khổ đau
    Bằng cái nhìn và sự nhận biết
    Nên Ngài Trần Nhân Tông đã chọn con đường của Phật
    Con người đặt niềm tin vào trí tuệ Phật
    Để khai mở trí tuệ Phật nơi chính mình
    Cũng là điều đầy nhiệm mầu và thú vị
    Chúng ta là con cháu của Ngài
    Không nên tôn trọng Ngài một cách hời hợt nông cạn
    Mà phải thực sự tập sống theo tinh thần của Ngài.


    Về pháp trị:
    Ngài Trần Nhân Tông đã trị nước theo chính pháp. Bản thân Ngài cũng thực hành ngũ giới và thập thiện ngay từ khi là hoàng tử, khi là hoàng đế.
    Sau này, Ngài cũng dạy cho các hoàng tử và quan lại
    Cũng sống theo thập thiện và ngũ giới
    Ngài cũng dạy dân chúng sống như vậy
    Phật nhìn thấy thập thiện và ngũ giới là con đường trung  đạo
    Đưa đến cho chúng sinh đầy ân phước làm người
    Con đường thập thiện và ngũ giới giúp chúng sinh phát triển cân đối giữa thân thể và tinh thần
    Giúp cho họ làm chủ mọi triết thuyết
    Vừa quân bình vừa tuỳ theo nhu cầu của thực tại sinh động.
    Trần Nhân Tông đã dựa vào thập thiện và ngũ giới
    Để ngồi trên ngai vàng mà ngai vàng không trói buộc
    Để sống trong ngũ dục mà ngũ dục không trói buộc
    Để phát huy tình thương và lòng nhân ái cho triều đình và nhân dân
    Để quên mình mà sống cho dân tộc và tổ quốc
    Để điều hành lòng dân, tín ngưỡng, tất cả các triết lý và luật pháp truyền thống
    Chăm lo cho nhân dân tuỳ theo hoàn cảnh của đất nước.
    Vinh quang thay minh triết của Ngài, vị vua trị nước theo chính pháp trên con đường của Phật!

Hà Nội, 20/12/2001


Cung Ma Cõi Phật
          "Số đời một hơi thở
          Lòng người hai biển bạc
          Cung ma chật hẹp lắm
          Nước Phật khôn xiết xuân".
    Vua Phật Trần Nhân Tông từng nói: "Đời người một hơi thở", con người thường nói "trút hơi thở cuối cùng" là gì? Khi con người trút hơi thở ra mà không thu vào được, thế là chết. Đức Phật đã chọn quán hơi thở làm một trong những phương pháp điều tâm để đạt thánh trí. Nhưng đa số độc giả đọc đến bài kinh Tứ Niệm Xứ thường không lưu ý giá trị thực tiễn của bài kinh, mà hay phóng tâm đi tìm những chuyện phức tạp, rắc rối và có vẻ "mật - không phổ biến" mới thoả mãn tâm lý của mình. Chúng ta thường bị tâm trí đánh lừa, và tâm trí thường dẫn dắt con người ra khỏi thực tại để dấn thân vào mơ mộng. Kỹ thuật kiểm soát hơi thở chính là phương pháp rất hữu hiệu giúp ta ở trong tình trạng của thực tại. Thực tại là vắng bóng của tâm trí, thực tại sẽ phát huy sự mầu nhiệm của tâm, để đời sống tâm linh của chúng ta làm chủ tâm trí và lúc ấy chúng ta sẽ được hạnh phúc!
    Nhờ vào phương pháp kiểm soát hơi thở mà thánh trí phát sinh mới nhận ra được "đời người một hơi thở". Cuộc đời chúng ta thật quý giá nhưng luôn bị đe doạ, giống như một người đang giữ một vật quý báu nhất trần gian thì mạng sống luôn bị đe doạ từ nhiều phía vậy. Con người thật sự quý giá vô cùng, không vật gì, thứ gì quý giá hơn nhưng lại bị đe doạ trầm trọng bằng một hơi thở! Đừng tin tưởng rằng thở ra, thở vào là quyền của mỗi người. Chúng ta thật sự không có quyền đó. Luật vô thường mới có quyền đó. Nhưng chúng ta lại không thể mua chuộc hay nịnh bợ hoặc thoả thuận gì được với luật vô thường. Do vậy, con người phải thức tỉnh được điều này mà dừng bớt và từ bỏ tham vọng, ý đồ và mưu mẹo để hơn thua, chiếm đoạt, nhận chìm và tiêu diệt nhau.
    Do vậy, đừng quá tin vào quyền năng của lý trí, của ý muốn mà hãy quay về với thực tại và ý thức về luật vô thường, thiết kế lại đời sống của mình trong tình trạng chúng ta không thể thoả thuận gì được với luật vô thường. Phải biết rằng "đời người một hơi thở", đức Phật hoàng Trần Nhân Tông đã sống với ý thức ấy trong cuộc đời của mình.
    "Lòng người hai biển bạc". Nếu thánh trí phát sinh, ta dễ thấy được "lòng người hai biển bạc". Lòng người ở đây là tâm của con người. Tâm vốn thênh thang không bị giới hạn, không bị cột chặt vào bất cứ gì. Tuy thế, tâm con người lại thường bị lệ thuộc vào hai cảnh giới mộng ảo là lòng tham về danh và lòng tham về lợi. Hai lòng tham này cũng vô bờ bến, tạo ra hai thế trận chôn chặt thân tâm người. Tâm không ngã vào lợi thì cũng ngã vào danh, hai thế trận này đã trở thành tâm thường xuyên của con người! Và con người khó vượt ra hai biển tham danh, tham lợi quá. Từ gọng kìm của hai biển tham danh, tham lợi này mà phát sinh ra vô lượng tâm trí để phục vụ cho hai biển tham ấy. Ở đây, có thể thêm vào một biển nữa là biển tình ái. Biển tình ái cũng mênh mông và chôn chặt con người không ít, có nhiều khi cả đời người. Khi về già, biển tham danh, tham lợi có thể cạn nhưng chưa chắc biển ái tình đã cạn. Trong lúc còn sức khoẻ thì biển ái tình này thường pha lẫn vào hai biển tham danh, tham lợi, nhưng khi càng về già, nhất là sự già nua của tứ đại thì biển tình ái dần tách ra hai biển kia và chi phối con người về mặt tâm lý nên trong thực tế, cuộc sống cũng không ít người già bị biển ái tình hành hạ làm khổ đời mình, khổ cho nhiều người khác, khổ lây cho xã hội.
    Do vậy, con người phải thường xuyên tỉnh táo, nhận biết tai hại của các biển tham danh, tham lợi, tham ái tình để tâm trở lại cõi tự do mênh mông của nó, cõi Niết Bàn. Ở cõi tự do ấy có sự khoái lạc đặc biệt mà sự khoái lạc của sự thoả mãn danh, lợi, ái tình không thể sánh được. Mà thực ra, có ai thoả mãn được với ba biển tham lam ấy đâu. Lòng tham là vô đáy, làm gì có chuyện thoả mãn.
    Các biển tham ấy đã tạo ra địa ngục, tạo ra cung ma nên đức Phật Trần Nhân Tông đã nêu lên trong bài kinh, "cung ma cai quản chặt". Con người phải biết tỉnh táo và nhận biết về cung ma nơi chính tâm mình. Tâm mình đã trở thành cung ma thì cảnh vật xung quanh cũng là thế giới ảo của ma, vì cảnh bên ngoài chính là ảnh của tâm. Hằng ngày hằng giờ phải thường kiểm điểm xem tâm mình có đang là cung ma của chính mình hay không? Khi con người nhận biết được tình trạng ấy thì cung ma dần dần sẽ tan biến để trả lại cho tâm trạng thái linh nguyên thuỷ của nó.
    Lời kinh ghi: "Cõi phật khôn xiết xuân".
    Thế nào là cõi phật? Ở đây có một thực tế đầy hấp dẫn nhưng ít ai thưởng thức được. Thực tế đó là trạng thái tâm vô nhiễm của chính mỗi con người. Tâm không nhiễm phàm cũng không nhiễm thánh. Thực tế ấy có sẵn ở mọi người. Nếu nhận biết được điều này thì hạnh phúc hiện tiền. Những ai đã từng yêu, từng sống với tình yêu nam nữ và thực hiện các nghĩa vụ trách nhiệm trong tình yêu ấy đều thừa nhận rằng, tình yêu có đẹp đến đâu, có tuyệt vời đến đâu rồi cũng không bằng giá trị của tự do. Trạng thái tự do thực sự cao quý hơn nhiều so với tình yêu nhưng tại sao con người lại ít ca ngợi tự do như ca ngợi tình yêu vậy? Quả thực con người có được bao nhiêu người sống với tâm trạng tự do? Chỉ có vài bậc thánh thôi ư? Không phải vậy đâu. Khi con người đã có kinh nghiệm ngự trị trong trạng thái tự do thì suối nguồn tình yêu chân chính sẽ tuôn chảy mãi không ngừng. Tình yêu của trạng thái tâm tự do là tình yêu tràn đầy, tình yêu được ban cho chứ không phải tình yêu để được thứ gì đó. Vậy khi con người muốn hưởng được cực lạc của tình yêu siêu việt thì phải tỉnh táo, nhận ra được trạng thái tự do của tâm phật trong mình.
    Lời kinh nói "cõi Phật khôn xiết xuân", nghĩa là ở đó chỉ có tình yêu vô điều kiện, thứ tình yêu ban cho mà không bao giờ hết, ban cho không điều kiện, không nhu cầu nhận lại điều chi. đức Jêsu, đức Phật Thích Ca đã sống như vậy, đức Phật Trần Nhân Tông cũng đã sống như vậy trọn đời mình.
    Mùa xuân là mùa sinh sôi nẩy nở của thế giới, là mùa thảnh thơi của con người. Nếu đừng để các lòng tham ái khống chế thì tâm con người lập tức là "cõi phật khôn xiết xuân".
    Chúng ta hành động cho cuộc sống theo tinh thần của Bát Thánh Đạo là hành động theo chính nghiệp, nghĩa là làm những nghề chính đáng để thoả đáng nhu cầu chứ không để thoả mãn tham vọng điên cuồng của mình.
15/08/2001


Cần Chú Ý Đến Những Vấn Đề Cốt Lõi Tư Tưởng Của Ngài Trần Nhân Tông

    Chúng ta nghiên cứu về cuộc đời Phật Hoàng Trần Nhân Tông để làm gì? Chúng tôi là người phật tử Việt Nam cũng có nhiều ưu tư đi tìm hướng đi tâm linh cho chính mình, và nếu được sẽ góp phần tham gia xây dựng hướng đi cho đạo phật, cho phật tử Việt Nam! Trên tinh thần đó, chúng tôi có nhiều bài nghiên cứu về cuộc đời Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông để giới thiệu cùng quý phật tử tham khảo. Việc làm này chỉ mong tìm ra hướng đi tâm linh phù hợp nhất cho mỗi phật tử Việt Nam, nhằm đạt được ba mục tiêu: tốt mình, tốt đạo, tốt đời.
    1. Quan điểm phật giáo tổng quan:
    Đức Trần Nhân Tông không có tâm phân biệt đối với các hệ phái phật giáo. Ngài không kẹt trong cái nhìn về đạo phật, bị bó hẹp trong các hệ phái. Như chúng ta thấy, quan niệm về các vị phật thì phật giáo Nam Tông chỉ thừa nhận một số vị phật ra đời trước đức Thích Ca và phật Thích Ca là phật Bổn Tôn, phật Di Lặc là phật Vị Lai nhưng không nhắc đến phật A Di Đà. Đức Trần Nhân Tông tôn kính các vị phật như nhau nhưng lại thêm rằng các vị phật ấy đều có trong tâm ta cả, như thấy trong Cư trần lạc đạo phú:
    "Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc"
    "Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca"
    "Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc."
                   "Vậy mới hay!
                   Bụt ở trong nhà
                   Chẳng phải tìm xa
                   Nhân khuấy bản nên ta tìm bụt
                   Đến cốc hay chính bụt là ta"(1)        
    2.  Mẫu người phật tử Việt Nam:
    Ngài đã đưa ra mẫu người phật tử Việt Nam thời bấy giờ mà vẫn có giá trị đến ngày nay cho Việt Nam và cả thế giới nữa.
    Mẫu người ấy như thế nào?
    Đứng ở phạm trù là một phật tử, nên sống theo hạnh bồ tát là người đã ngộ được bản tâm, đã chứng nghiệm được tính không của vạn pháp, phát đại bi tâm sống với chúng sinh để làm chỗ dựa tinh thần giúp đỡ họ.
    Nhưng đứng về phạm trù chủ quan cuộc đời thì Ngài lấy tiêu chuẩn trượng phu Việt Nam làm tiêu biểu. Tiêu chuẩn trượng phu Đại Việt là "ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu". Ngày nay, khái niệm chúa  được hiểu là tổ quốc, là quyền lợi của nhân dân và chính sách cai trị của các nhà lãnh đạo đất nước, kết hợp hạnh đức bồ tát với tiêu chuẩn trượng phu Đại Việt đã tạo ra mẫu người phật tử Việt Nam lý tưởng thời bấy giờ là:
    "Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm"
    "Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu"
    Trên tinh thần đó, Ngài đã thiết kế một mẫu người Việt Nam như đã nêu ở trên. Khi trao quyền cho Pháp Loa, Ngài trao một biểu tượng thiết kế độc đáo cho con người làm người là biểu tượng 20 cuốn kinh nội điển viết bằng máu và 100 cuốn kinh sách ngoại điển.
    Như vậy, người tu sĩ hay bất cứ ai cũng phải lấy mẫu thiết kế ấy mà phấn đấu. Hai mươi cuốn kinh đại tạng viết bằng máu nghĩa là con người phải lấy Giới, Định, Tuệ làm gốc, làm mạng mạch cuộc sống của chính mình. Giới đây là giới lòng, là tư cách tác phong, tư cách làm người khác hẳn với bản năng sinh tồn do lòng tham muốn được thoả mãn với những ham muốn trần tục. Tuệ đây là tuệ giác hay là tinh thần vô ngã, là tinh thần mình vì mọi người. Nắm lấy và phát huy Giới, Định, Tuệ một cách chính pháp. Tức con đường đưa đến Ngũ Minh (Thánh Minh, Công Xảo Minh, Y Phương Minh, Nhân Minh, Nội Minh) và đây là căn bản tối quan trọng để xây dựng một mẫu người lý tưởng cho hạnh phúc của cuộc đời. Một khi mỗi con người thực hành đúng nghĩa con đường này thì càng thấy vai trò của tư tưởng "cư trần lạc đạo" của Ngài Trần Nhân Tông là một sợi chỉ vàng xuyên suốt một cách sáng tạo, mới lạ, con đường thực dụng hấp dẫn đối với con người học đạo và lãnh đạo. Con người ấy cần biết rằng, "tâm ý làm đầu các pháp" và thực hành sự biết đó là căn bản nhất trong các pháp. Tâm ý như thế nào thì các pháp sẽ như thế ấy.
    Về bản tâm, ai cũng hiểu rằng mình có sẵn bản tâm vốn thanh tịnh, vốn là gốc của muôn pháp, không cần phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm bất cứ việc gì để có được bản tâm ấy. Nó có sẵn rồi, mọi người chỉ việc dùng ý thức nhận ra nó, rồi dựa vào nó mà phát ra vô lượng tâm ý tuỳ thuận hoàn cảnh cộng đồng mà làm lợi lạc cho cộng đồng mình. Thế là xong.
    Thực ra, Trần Nhân Tông không cần chờ đến tác động của thiền phái để được ngộ tâm pháp. Kinh nghiệm của các thiền phái hay kinh điển chỉ giúp cho Ngài về mặt ấn chứng để biết rằng, Ngài đã đúng đắn trong việc khám phá bản tâm và sử dụng sự khám phá ấy. Không nên quan trọng hóa về nội dung và phương pháp tu dụng. Điều này chỉ nhằm giải quyết nhu cầu cho một bộ phận nhỏ giới tu sĩ chứ không thể giải quyết vấn đề trọng đại của toàn dân, của tổ quốc được.
    Điều vĩ đại của Đức Phật Thích Ca là sự khám phá phật tính ở mỗi chúng sinh, và sự khám phá tính không (sự trống rỗng) của thế giới đã tạo nên một động lực thúc đẩy sự thăng tiến thánh trí trong mỗi cá thể con người nói riêng và chúng sinh nói chung. Điều không ít vĩ đại của Trần Nhân Tông là đã biết khai thác kết quả sự khám phá của đức Phật vào thực tiễn bản thân mình để trở thành một người lãnh đạo tuyệt vời của dân tộc, góp phần rất to lớn có ý nghĩa lý luận và thực hành trong việc giữ nước và xây dựng đất nước.
    Từ những căn bản của tư tưởng và cuộc đời của mình, vua Phật Trần Nhân Tông đã để lại cho chúng ta một sự học vô cùng quý báu có giá trị vượt thời gian và chính kiến, bởi lẽ tư tưởng và việc làm của Ngài là vì dân, vì nước. Và quý hơn nữa, nó vượt ra khỏi quan niệm hẹp hòi của bất cứ thiền phái nào và thậm chí vượt ra khỏi sự ràng buộc của tôn giáo.      
02/08/2001

Làm Rõ Thêm Về Những Điểm Nổi Bật Của
Trần Nhân Tông
(Thư gửi ông Ngô Văn Quán, Giám đốc TT Unesco Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam)

    - Trong tài liệu Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, Ngô Sĩ Liên đứng trên cái nhìn của nho giáo cộng thêm con mắt của người chưa chứng ngộ chân lý đã kết luận, "Trần Nhân Tông là vị vua anh minh nhưng đáng tiếc là người quá say mê phật giáo."
    - Các nhà nghiên cứu phật giáo lại ca ngợi rằng, ở địa vị một vị vua lại sớm nhường ngôi cho con để theo con đường tu hành, sau cùng là đi xuất gia theo phật làm một vị tỳ kheo hay tu sĩ để tu tập chứng đạo.
    - Người đọc ngày nay suy nghĩ gì về hai ý tưởng ấy? Nếu thông thường mà hiểu theo hai ý nghĩ ấy thì chắc chẳng có nhà chính trị nào ủng hộ Trần Nhân Tông cả. Tại sao?
    Thứ Nhất
    Chuyện say mê một tôn giáo đối với một người nắm quyền sinh sát trong tay đối với một quốc gia quả thật phải coi chừng, và người ấy vì quá say mê như vậy nên đầu óc đương nhiên hành động theo cái tâm tăm tối. Bất cứ loại say mê nào cũng chỉ làm cho tâm trở thành thiên kiến và như vậy rất dễ có tinh thần cực đoan tôn giáo.
    Thứ Hai
    Nếu một người quá anh minh như Trần Nhân Tông thì là người vô cùng quý báu cuả dân tộc, nay lại từ bỏ tất cả để tìm đường tu hành nào đó để mong đạt một khả năng giác ngộ nào đó, thì hoá ra Ngài cũng chỉ là con người cá nhân ích kỷ và cũng chẳng có trí tuệ gì. Bởi vì, trước khi rời ngai vàng quyền lực nhường ngôi cho con, Ngài đã xác nhận rằng Tuệ Trung Thượng Sĩ đã khai trí cho Ngài con đường tiến đến giác ngộ, và con đường đó không phải là đi tìm một nhà sư để thọ giới và tu tập hay bất cứ một con đường nào bên ngoài tính giác của mình. Con đường của Tuệ Trung Thượng Sĩ (mà Trần Nhân Tông nhận làm thầy) là tự mình khám phá giác tính nơi chính mình. Chính vì thế mà chẳng có tài liệu nào nói Ngài đã thọ giới sa di với vị sư nào để có cơ hội tiến lên thêm các nấc thang cao hơn như đại đức, thượng tọa, hòa thượng… để được nhiều người tôn sùng. Ngài có cần ai tôn sùng sự tu hành của Ngài không? Tôi chắc là không. Mọi suy nghĩ, quyết định và hành động của Trần Nhân Tông đều từ lòng thương dân, thương nước. Ngài không quan tâm chuyện gì khác ngoài việc thương yêu đồng bào của Ngài, và làm hết sức mình để bảo vệ và giúp đồng bào của mình ngày thông minh hơn, tỉnh táo hơn, no đủ hơn và sống thoải mái tinh thần hơn. Hiện tướng xuất gia theo Phật cũng là một con đường mà Ngài sử dụng để bảo vệ và chăm sóc nhân dân.
    * Vậy ngày nay, chúng ta nhìn thế nào để thấy rằng Trần Nhân Tông chính là một viên ngọc vô giá của người Việt Nam nói riêng và loài người nói chung?
    1/ Về nêu cao tinh thần độc lập của người Việt:
Không chịu khuất phục Bắc triều, tìm cách từ chối gặp Bắc triều để được phong vương như các vị vua Việt trước kia.
    2/ Về đạo đức và nhân cách cá nhân:
    Có tinh thần học tập từ nhỏ, kể cả học đạo phật. Siêng năng học tập và làm việc vì lợi chung của dân tộc và các học trò cho đến hơi thở cuối cùng. Thực hành cuộc sống gương mẫu trong mọi thời mọi nơi. Dũng cảm từ bỏ mọi ưu quyền bổng lộc để làm gương cho cả triều đình. Một người như vậy mới chinh phục và lãnh đạo được Trần Hưng Đạo trên mọi mặt. Có cuộc sống đạo đức như thế mới dạy con làm vua không được vung phí của công. Có đạo đức như vậy, mọi quan lại mới chịu nghe theo Ngài mà sống thanh liêm, một lòng lo cho dân cho nước. Chứ nếu Ngài cũng trên ngôi cao chín tầng, hưởng bổng lộc rồi dùng quyền uy và pháp luật để dạy và răn đe quan lại thì ai nghe?
    3/ Về giáo dục nhân cách cho quan lại triều đình và cho toàn dân:
    Ngài làm lễ thọ bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và  tất cả các quan lại. Bồ tát giới trong đạo phật theo tư tưởng Ngài là trang nghiêm bên ngoài và trang nghiêm bên trong (“Sạch giới lòng, giồi giới tướng; Nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm" - Cư Trần Lạc Đạo phú). Không phải Ngài say mê phật giáo đến mức mù quáng mà ép buộc người ta vào tôn giáo. Nhưng Ngài hiểu quá rõ tính nết của hầu hết các quan lại triều đình và các thành viên trong hoàng tộc là thường xuyên tranh dành ảnh hưởng về quyền lực, thu vén quyền lợi và hà hiếp kẻ yếu là dân. Do vậy, Ngài mạnh dạn sử dụng thế mạnh của Ngài sẵn có là người đầy uy quyền của triều đình, dám từ bỏ tất cả mọi hưởng thụ và không tham lam để thực hiện cuộc sống đơn giản vừa với sức của mình và phù hợp với hoàn cảnh của dân của nước. Ngài biết cân bằng và gương mẫu thực hiện sự công bằng trong cuộc sống cá nhân, triều đình và nhân dân. Có như vậy thì mới giữ được nước khi nước lâm nguy. Có như vậy mới đoàn kết một lòng toàn dân và triều đình dựng xây lại đất nước sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá.
    4/ Về tinh thần đoàn kết dân tộc và tôn trọng tự do tín ngưỡng:
    Không kì thị mà ngược lại, tạo điều kiện cho Khổng giáo, Lão giáo cùng tồn tại và phát triển chung với đạo Phật.
    5/ Về lòng từ bi với nỗi khổ của dân:
Thương dân, đem kho ra phát cho dân khi có nạn đói; để ý đến đời sống của các tù nhân trong mùa đông lạnh giá; gặp dân và cho xem lại những vụ án dân kêu oan.
    6/ Cái nhìn đối với những người xâm lược bờ cõi:
    Khi họ thua trận thì tạo điều kiện cho họ trở về nước bình yên; tôn trọng các tướng của giặc khi họ đã chết, bị đứt đầu thì Ngài ráp đầu lại và lấy áo bào phủ lên rồi cho đưa thi thể họ về nước đàng hoàng. Khi kẻ thù xâm lăng thì quyết chiến quyết thắng, nhưng khi thắng trận rồi thì quên chuyện thù hận trong quá khứ để hướng tới tương lai xây dựng đất nước.
    7/ Về tư tưởng tu hành và thực hiện lòng tin tín ngưỡng đối với các nhà sư và dân trong nước:
    Riêng Ngài, Ngài không nhận một nhà sư nào để làm thầy trong thời gian đóng vai là một nhà sư Phật giáo. Ngài thừa nhận Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy. Trong khi đó, Tuệ Trung Thượng Sĩ lại là một người của hoàng tộc và là một vị quan của triều đình. Tuệ Trung Thượng Sĩ tu thiền nhưng không ăn chay. Trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo, Ngài giải thích mục đích của việc tu hành là gìn giữ cho tâm bình yên và trong sáng rồi tùy duyên mà ứng xử, ứng xử mà vẫn giữ được sự bình yên và vô tâm trước mọi sự việc trước mắt.
    8/ Về cái dũng:
    Không khiếp nhược trước đội quân xâm lược hung hãn nhất thế giới thời bấy giờ và đã chỉ huy hai cuộc chống đại quân xâm lược phương Bắc thắng lợi vẻ vang. Cái dũng thứ hai là dám từ bỏ hoàng hậu, hoàng gia, cung tần mỹ nữ để sống cuộc sống gương mẫu của một người không tham lam những chuyện mà hầu hết con người trên hành tinh này tham muốn. Ngài dám từ bỏ mọi sự hưởng thụ cá nhân để làm gương cho toàn triều đình và nhân dân. Đó là cái dũng vô biên và cũng là cái đức khó làm của nhân loại, kể cả những người theo đuổi con đường giác ngộ giải thoát nhưng vẫn đầy lòng tham.
    9/ Về cách ứng xử để cân bằng cho từng cá nhân, gia đình và cộng đồng:
    Ngài chủ trương và đích thân đi giảng dạy khắp nơi trong đất nước về năm nguyên tắc ứng xử mà mỗi người Việt Nam cần hiểu và áp dụng để giữ sự điều hòa cho chính mỗi cá nhân, mỗi gia đình và cho toàn cộng đồng. Năm nguyên tắc ứng xử ấy là:
    a. Không được giết người và gia súc, động vật.
    b. Không được lấy của cải tài sản, tiền bạc hay những vật khác mà không được người chủ của nó tự giác cho, không được ỷ thế của mình mà hà hiếp lấy tiền của tài sản của người, không được lợi dụng ưu thế của mình để nghĩ ra nhiều thủ đoạn để lấy tiền của của người khác.
    c. Không được quan hệ tình dục loạn luân, không lợi dụng mọi hình thức để thỏa mãn tình dục, không được ngoại tình, không được mua bán và dùng áp lực để thỏa mãn tình dục.
    d. Không được dùng những chất cay, những chất kích thích làm cho đầu óc tối tăm vì sẽ dễ gây ra những hậu quả cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
    e. Không được hút thuốc phiện hay cần sa vì sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
Nói tóm lại, Trần Nhân Tông là một tấm gương về:
    * Đạo đức của người lãnh đạo đất nước.
    *Là tấm gương sáng về nhân cách cá nhân người Việt.
    * Là tấm gương sáng của trí tuệ vô ngã và trí tuệ cân bằng và đoàn kết mọi thế lực trong nước.
    * Là tấm gương thương yêu và tin dân.
    * Là tấm gương sáng suốt, sống tích cực và hữu ích khi thực hiện niềm tin tín ngưỡng nói chung và phật giáo nói chung.
    * Là tấm gương sáng của lòng dũng cảm với ngoại bang ỷ thế mạnh ức hiếp dân tộc và xâm lấn bờ cõi; dũng cảm từ bỏ mọi thứ hưởng thụ mà loài người mơ ước để thực hiện lợi ích cho dân cho nước.
    * Là tấm gương trí tuệ thực hiện vai trò của bản ngã tạm bợ để thực hiện những hành động có tính vô ngã phục vụ cho lợi ích của số đông.
    * Là tấm gương giáo dục về cách ứng xử cho mọi người để đảm bảo sự điều hoà cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Đó là những vấn đề chúng ta cần xem xét, đánh giá cụ thể để làm sáng lại viên ngọc vô giá này cho người Việt và loài người!

Cali, ngày 30/07/2006

Số Đời
"Số đời một màn kéo
Tình người đôi mắt ngân"
(Trích Trần Nhân Tông toàn tập của Lê Mạnh Thát)

    Đọc hai câu kinh trên, tôi không cầm được xúc động khi tôi kéo khoảng thời gian cách đây hơn bẩy trăm năm về trước mặt, để nhìn thấy Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong những ngày cuối đời từ núi Yên Tử về kinh thành Thăng Long thăm người chị ruột là công chúa Thiên Thuỵ bị đau nặng sắp qua đời!
    Biết chị không thể ở lại với đời, Ngài dặn dò: "Thời tiết đến, chị cứ đi. Nếu có Diêm Vương hỏi thì chị trả lời, chờ em tôi là Trúc Lâm Đại Sĩ sẽ đến". Từ giã chị, Ngài ngủ qua đêm tại chùa Siêu Loại, sáng hôm sau lên đường về núi Yên Tử, qua chùa thôn Hương Cổ Châu, Ngài đề lên vách bốn câu:
                   "Số đời một màn kéo
                   Tình người đôi mắt ngân
                   Cung ma chật hẹp lắm
                   Cõi Phật khôn xiết xuân".
    Tôi thật sự xúc động, "số đời một màn kéo; tình người đôi mắt ngân". Sinh ra trong cõi đời này, chúng ta bị động hoàn toàn, rồi đóng không biết bao nhiêu vai trên sân khấu cuộc đời. Khi màn kéo, chúng ta không thể đóng được vai nào nữa. Chúng ta bị đặt vào các vai diễn một cách bất đắc dĩ trong một chuỗi dài các vở bi hài kịch, cười ít khóc nhiều. Hai con mắt chúng ta không lớn lắm, những giọt nước mắt mỗi khi chảy cũng không nhiều lắm, nhưng cả một đời hai dòng suối này không dứt, đời này rồi vô lượng đời nữa cộng với vô lượng đời đã qua có lẽ nhiều hơn nước của đại dương!
    Không ai không khóc, từ người dân thường đến các bậc quân vương, từ người nghèo khó đến những người giàu sang phú quý tột đỉnh! Biết vậy, chúng ta nên sống vị tha, thông cảm lẫn nhau, đừng gen ghét nhau, đừng bôi xấu nhau, đừng hãm hại nhau, đừng mưu toan đê tiện với nhau. Tất cả những tâm xấu xa đó là "cung ma chật hẹp lắm".
    Có những thế giới khác bên cạnh thế giới khổ đau này. Những thế giới đó đẹp lắm, đó là" cõi phật khôn xiết xuân". Ngoài cõi phật ra cũng còn có các cõi khác thấp hơn chung quanh ta như cõi thánh, cõi trời, cõi a tu la, cõi người, cõi ngạ quỷ, cõi súc sinh, cõi địa ngục. Có các thánh và các mẫu nhưng các vị ấy sống nhiều tình thương và rất hiền hoà. Các Ngài không lừa lọc, các Ngài sống bằng con tim chứ không sống bằng trí. Nếu các vị ấy dùng trí để sống thì cũng không thoát khỏi cảnh "tình người đôi mắt ngân; cung ma chật hẹp lắm".

18/08/2001

Người Việt Cao Quý
Cái đẹp của giống Việt
Là biết vận dụng
Trí tuệ phương tiện của thế gian
Để khám phá chính mình
Trên ý nghĩa đó
Đạo phật từ ấn và Trung
Vào Việt Nam khoảng hai nghìn năm nay
Các nhà truyền giáo
Giới thiệu những lời Phật Thích Ca dạy
Theo nhiều kiểu khác nhau
Nhưng sau hơn một ngàn năm
Người Việt tiếp cận với kinh sách phật giáo
Đến thế kỷ mười ba
Đức vua Trần Nhân Tông trị vì
Người đã công bố với toàn dân Việt rằng:
"Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chính bụt là ta".
Rằng phật tại tâm ta
Tại quên điều quan trọng ấy
Mà ta cứ đi tìm phật ở bên ngoài
Khi thức tỉnh được điều ấy
Thì chính ta đây là phật
Chữ phật đây không phải ông nào
Chữ phật đây chỉ chung cho người thức tỉnh
người chứng ngộ, người giải thoát, người có tâm tự do
tuyệt đối, người không đánh mất mình trong trí thức
Cho nên Trần Nhân Tông tuyên bố:
"Biết chân như, tin bát nhã
Chớ còn tìm phật tổ Đông Tây".
Đức Phật Thích Ca cũng xác nhận rằng:
"Có vô lượng chư phật"
"Tất cả chúng sinh đều có phật tính, đều có
                             tiềm năng phật và sẽ thành phật"
 Trạng thái phật là trạng thái tâm vô tâm tưởng
Nên ngài Trần Nhân Tông tuyên bố:
"Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo".
Những lời tuyên bố ấy
Lan rộng khắp nhân gian
Mãi đến hôm nay
Hầu như mọi người dân Việt
Tin tưởng và nhận rằng
Phật chính tại tâm ta
Tu phật là nhận biết phật của mình
Và để cho phật của mình làm việc

Thậm chí nhiều người tín đồ đạo chúa
Cũng nhận ra rằng
Nếu có chúa
Thì chính tại lòng ta.
Có lần tôi đến thăm một làng hồi giáo
Tại tỉnh Đồng Nai nước Việt
Tôi trò chuyện với vài tín đồ nam giới
Họ nói rằng
Sau nhiều lần làm lễ cầu nguyện
Thánh Ala
Tại chính lòng ta
Chính những tín đồ thiên chúa
Họ rất tâm đắc lời Chúa dạy:
"Hãy dành trọn tình thương cho Chúa
Và hãy yêu thương mọi người chung quanh
                             như yêu thương chính ta vậy".
Chúa là tình thương
Hãy dành trọn tình thương cho chúa
Nghĩa là cái đáng thương yêu nhất
Chính là tình thương vô điều kiện.
Hãy thương yêu mọi người quanh ta
Như chính ta
Một người sống như vậy
Nếu Chúa không phải tại lòng ta
Không phải ta. 
Thì ta là ai?
Sự đẹp đẽ nhất của người Việt hôm qua
Hôm nay và mai sau
Là họ nhận ra rằng
Họ chính là một khối khổng lồ
Vô biên tình thương
Bất kể họ thuộc tôn giáo nào.
Tôn giáo chỉ là
Lớp áo bên ngoài
Giúp họ vui với cộng đồng tương ứng
Còn thật tận bên trong
Họ tự biết rằng
Họ chính là Phật, là Chúa, là Ala!
Là lòng thương yêu tất cả muôn loài!
Là sự sáng suốt, đoàn kết vượt qua gian khổ
Để cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no. 
Nhưng nếu là những người không phải giống Việt
Chưa chắc họ đã công nhận điều ấy
Họ chỉ hướng về
Tiền bạc và quyền lực
Cùng với sự thoả mãn khoái lạc xác thân
Họ không cần phật, chúa bên trong
Họ không dám nhận nếu đó là điều có thật
Họ thích nhân danh phật, nhân danh chúa
Chứ họ không muốn nhận ra chính mình
Là phật, là chúa!
Nhân danh thì dễ thoả thích điên cuồng
Không cần chia sẻ
Còn nếu nhận ra
Họ cảm thấy mất đi bản ngã!
Cho nên có người nói:
"Thà sống ở địa ngục trần gian
Hơn là chấp nhận thiên đàng".
Còn người Việt thì sao?
Không từ chối quyền lực
Không từ chối danh vọng
Không từ chối vàng bạc châu báu
Họ cho đó là phước báu của họ
Họ không điên cuồng tạo ra nó
Nhưng họ không từ chối khi nó đến
Họ không sử dụng nó trong trạng thái
Tham sân si
Họ sử dụng nó trên nền tảng đạo lý Việt Nam
ấy là sự văn minh của người Việt
Là vẻ đẹp, là đạo lý, là thiêng liêng của người Việt. 


Trích: Những Điều Dạy Về Phật Của Trần Nhân Tông - Tác giả Duy Tuệ - NXB Văn Hóa Thông Tin ấn hành