"Khai mở nhận thức sâu thẳm và duy trì cảm xúc tình người thiêng liêng"

....

.

.
.

ABA Quotes

Thông Điệp Từ Tỉnh Thức Sâu Thẳm


Căn cứ trên những điều có thật là vấn đề rất quan trọng, vì nếu chỉ nói theo sách vở thì không có giá trị bao nhiêu. Do đó, tôi không nói theo sách vở, chỉ trình bày theo sự trải nghiệm của mình. Phần tôi nói về trải nghiệm vừa là thực tế để quý vị nhận ra, vừa là phần căn bản để quý vị rút kinh nghiệm trong toàn bộ quá trình thực hành tâm linh.


A. Những trải nghiệm đặc biệt

Qua bao nhiêu năm tháng ưu tư về bí mật đời người, ý nghĩa cuộc sống, khổ đau của con người… tôi tình cờ đã rơi vào trạng thái hạnh phúc mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt hoàn toàn. Sự trải nghiệm đặc biệt này xảy ra thường xuyên trong ba năm liên tiếp.

1.Đợt trải nghiệm thứ nhất xảy ra hai lần với đặc điểm là trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu!

Tôi chìm sâu trong trạng thái phúc lạc nằm ngoài kinh nghiệm sống của đầu óc chứa đựng khái niệm về giá trị sự sống ở đời. Nó giống như trạng thái tỉnh thức tuyệt đối, không chứa bất cứ ý niệm gì về giá trị sự sống ở đời. Có thể tạm gọi đó là trạng thái phúc lạc của sự thấy biết thuần khiết nhất. Trong trạng thái đó, không hề có sự hiện diện của bất cứ hiện tượng hoặc ý niệm gì thuộc về hình tướng, bản ngã hay liên quan đến các vấn đề của đầu óc suy nghĩ. Có thể đặt tên cho trạng thái này là "phúc lạc của đầu óc bên ngoài và sau kinh nghiệm".

Tình huống thứ nhất là trải nghiệm của tôi khi ở Việt Nam. Một buổi chiều trước khi vào thiền định, trong đầu tôi xuất hiện một ý niệm giống như khởi phát một đại nguyện lớn: "Hoặc tôi sẽ không hiện diện trên cõi đời này nữa vì điều đó không mang lại lợi ích cho ai, chỉ gây thêm sự rắc rối cho cuộc đời, cho những người xung quanh; hoặc tôi thật sự là người có ích cho người khác.". Việc này giống như tôi từ chối thực tế của cuộc sống, từ chối sự sống để đi vào vô định hay đi vào thực hiện lời thề bỏ mạng sống của mình để đổi lấy điều lợi ích cho người khác. Sau đó, khi ý niệm, ý chí hay lời phát nguyện ấy lắng xuống, tôi bắt đầu cuộc hành thiền và chìm đắm vào trong trạng thái đặc biệt này.

Sự biết này khác với sự biết của đầu óc kinh nghiệm như thế nào? Sau khi chìm đắm trong năng lượng phúc lạc siêu phàm, đầu óc trở lại với trạng thái tỉnh thức bình thường, không có sự quấy rầy của suy nghĩ. Trạng thái tỉnh thức bình thường biết đầu óc vừa đắm chìm trong cõi hạnh phúc chưa từng có. Ở trạng thái phúc lạc siêu phàm, thế giới này không hiện hữu, không còn gì hiện hữu. Tuy nhiên, khi tỉnh thức với đầu óc không có suy nghĩ quấy rầy, tôi vẫn biết có thế giới tồn tại xung quanh mình, hay mình đang tồn tại trong thế giới này.



Ba mươi phút chìm đắm trong năng lượng phúc lạc của đầu óc như không có thế giới tồn tại, rồi khi trở về trạng thái tỉnh thức bình thường thì giống như toàn bộ con tim tự dưng ngập tràn một nguồn năng lượng với các đặc điểm: Tự nhiên tôi thấy thương con người bằng tình thương vô hạn mà trước đó chưa bao giờ thấy và cũng không thể nghĩ tới được. Năng lượng thương yêu chảy vào, phủ đầy con tim và toàn bộ con tim khi ấy tràn ngập tình thương yêu con người. Tôi bỗng thấy rõ được sự khổ đau của con người và rất hiểu, thông cảm với sự khổ đau đó, đồng thời thương yêu con người vô cùng và muốn làm điều gì đó để chia sẻ nỗi khổ của họ. Dù biết để làm được điều đó là vô cùng khó nhưng tôi vẫn tha thiết mong muốn. Cái khó là người khổ đau giống như đang sống trong cảnh mộng du nên họ khó thấy điều chân thật.

Tóm lại, khi trở về trạng thái tỉnh thức bình thường thì điều kì diệu đầu tiên là tình thương yêu tràn ngập trong con tim thứ hai là năng lượng thông cảm, yêu thương trở thành mong muốn làm điều gì đó để giúp đỡ, chia sẻ sự khổ đau với người khác. Đó là sự kì diệu mà tôi chưa từng thấy trước khi tình cờ bắt gặp ở lần trải nghiệm đầu tiên.

2. Đợt trải nghiệm thứ hai lặp lại rất nhiều lần trong hơn một năm với đặc điểm là, nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt, vô hiệu hoàn toàn.

Tôi chìm đắm trong trạng thái kì diệu của đầu óc, vượt ra ngoài sự thấy bằng kinh nghiệm, chỉ thấy chứ không hiểu, không biết. Vì thế mà nảy sinh thắc mắc, không biết cái mình thấy, mình đang sờ vào là cái gì và cũng không có cách nào trả lời được, vì thế giới kinh nghiệm đã biến mất.

Trong giai đoạn này, sự trải nghiệm xảy ra rất nhiều lần. Bộ máy suy nghĩ trong đầu tự động bị khóa lại, kinh nghiệm sống trong đầu hoàn toàn không hiện hữu, không hoạt động được nhưng tôi vẫn đi, đứng, vẫn thấy sự vật, vẫn đụng chạm vào sự vật như để hiểu nó là cái gì.

Tôi vào trạng thái kì diệu mà chức năng suy nghĩ không hoạt động được và thế giới kinh nghiệm tan biến trong lúc đang nằm nghỉ trưa trên một chiếc giường trong một am nhỏ, rồi rảo bước trong khu vườn ươm cây. Lúc ấy, tôi không có ý niệm về cái giường và thắc mắc nó là cái gì, rồi thận trọng bước xuống, đi nhẹ trên nền nhà quen thuộc nhưng không có ý niệm là nền nhà và cũng thắc mắc không biết đó là cái gì. Rồi tôi nhè nhẹ bước ra vườn nhìn hòn đất, cây cối, khu vườn, ánh sáng… tất cả mọi thứ xung quanh đều cảm thấy rất xa lạ như chưa từng thấy bao giờ nhưng rất nhẹ nhàng và êm dịu. Mọi thứ quen thuộc trước đây, trong thời khắc trải nghiệm này đều không có tên để gọi nên tôi không hiểu chúng là gì. Toàn thân tôi nhẹ nhõm như hư không. Tôi đi như là chiếc lá khô lướt nhẹ trên mặt đất. Ánh sáng mặt trời êm dịu như trăng rằm.

Những lần trải nghiệm như thế rất ngẫu nhiên, tôi không thể dùng ý căn hay ý chí để ra lệnh cho suy nghĩ được, chức năng này bị khóa chặt, cơ thể nhẹ như bông, ánh nắng trở nên dịu dàng, đầu óc vẫn biết là không thể ra lệnh cho suy nghĩ làm việc, không còn bất cứ khái niệm nào với muôn vật xung quanh, thế giới như hoàn toàn xa lạ.

Khi trở về trạng thái tỉnh thức bình thường thì tôi nhận ra rằng, vừa rồi là một con người có bộ máy suy nghĩ không làm việc được và mọi kinh nghiệm sống biến mất. Còn bây giờ thì bộ máy suy nghĩ lại làm việc được và kinh nghiệm cuộc sống xuất hiện trở lại. Trải nghiệm này giúp tôi nhận ra rằng, bộ máy suy nghĩ không phải là con người thật. Các lần trải nghiệm như vậy đều xảy ra tại Việt Nam.

3. Đợt trải nghiệm thứ ba xảy ra một lần với đặc điểm là, bộ máy suy nghĩ không bị khoá nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn.

Cuộc trải nghiệm diệu kì thứ ba diễn ra tại Ấn Độ. Khi đó, tôi đang đi gần khu vực núi Linh Thứu. Ở lần trải nghiệm này, toàn bộ các ý tưởng, khái niệm hay mọi thứ  trong đầu óc của tôi bỗng dưng tự nhiên sụp đổ hoàn toàn, không còn hiện hữu nữa, giống như tôi đang đứng trong một khu rừng rậm thì tự nhiên chúng sụp đổ toàn bộ, chúng biến và tôi trơ trọi ngơ ngác trước sự kiện kì diệu này!

Sự sụp đổ tự nhiên bất ngờ đó khiến tôi ngơ ngác, không kịp trở tay. Bỗng nhiên bao nhiêu ý tưởng, ý nghĩ, niềm tin, khái niệm… đổ sụp, tan biến hết. Giống như bao nhiêu tài sản tinh thần trong đầu biến mất nên ngơ ngác nhưng hạnh phúc quá chừng, như mình vừa mới sinh ra. Giống như một người đang đứng giữa rừng thì bỗng dưng toàn bộ rừng cây bất ngờ gãy đổ tận gốc và thành ra người đó đứng giữa khoảng trống mênh mông, không còn bất cứ cây cối nào.

Trong trải nghiệm này, chức năng suy nghĩ vẫn hoạt động bình thường nhưng vì kho kinh nghiệm trống rỗng nên không có suy nghĩ xuất hiện.

Thay vì suy nghĩ xuất hiện thì trí thấy sâu thẳm và tỏ tường lại xuất hiện thường xuyên, và cái thấy đầu tiên xuất hiện là tôi thấy kho kinh nghiệm sụp đổ. Cái thấy tiếp theo là thấy nguyên nhân đầu óc căng thẳng hay bị stress trong bao nhiêu năm qua là do những suy nghĩ từ kho kinh nghiệm mà ra. Nói cách khác, trí thấy thấy rằng, nguyên nhân chính khiến đầu óc căng thẳng và luôn chật chội, không vừa lòng trong bao nhiêu năm qua là do kinh nghiệm và suy nghĩ gây ra.

Qua lần trải nghiệm này, tôi thấy rõ nguyên nhân tại sao mình khổ đau, căng thẳng, bất toại nguyện với cuộc sống, tại sao cuộc đời mình như luôn luôn đối phó mà không có lối thoát. Lần trải nghiệm này cũng mở ra cái thấy của tôi về chính mình với cuộc đời này.



B. Con người hoàn toàn mới xuất hiện

Sau các thời kì trải nghiệm diệu kì ấy, não bộ của tôi hoàn toàn thay đổi cách làm việc, gần như không còn nằm trong logic cũ nữa. Giống như con người cũ hoàn toàn chết hẳn và một con người hoàn toàn mới từ đâu đó xuất hiện với một số đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, câu hỏi về mục đích và ý nghĩa của cuộc đời trong mình không còn mơ hồ nữa. Trí thấy khiến phần đời còn lại không còn dành riêng cho cá nhân mình nữa, thay vào đó là sứ mệnh hộ trì thế gian, cả người sống và người chết, hữu hình lẫn vô hình.

Thứ hai, thường xuyên an trú trong đời sống vô tướng và biết rõ con người thật, đời sống thật của mình chính là ánh sáng Tính Phật, trạng thái Tính Phật, trạng thái tỉnh thức và siêu tỉnh thức. Tạm dùng ánh sáng màu trắng để biểu thị, để dễ trở về an trú trong đời sống vô tướng. Vì an trú trong đời sống vô tướng nên luôn luôn đưa ra cách ứng xử vượt lên trên tất cả những mâu thuẫn của hữu tướng.

Thứ ba, tầm nhìn hoàn toàn khác với con người cũ trước đó. Nhìn toàn diện và thấu triệt bản chất của tâm, vật. Tức là từ bên trong, thấy rất rõ đầu óc, cách làm việc của tâm tưởng, toàn bộ ý niệm, khái niệm. Còn bên ngoài, thấy được hết các thế giới qua sự tiếp xúc của các giác quan, biết tại sao các thế giới đó hình thành, lúc nào hình thành và biến mất như thế nào. Nhìn rõ chi tiết thế giới vi tế trong thế giới vô hình và nhìn rõ bản chất các vấn đề của thế giới hữu hình. Sự nhìn mang tính bình đẳng, thoát li, tự do, giải thoát hay không dính mắc, vô tư và đem đến sự bình yên. Nhìn bất cứ cái gì cũng thấy rõ và được giải thoát, ham muốn không hiện lên, không xuất hiện sự dính mắc. Sau này tôi thấy trong kinh Phật giáo ghi cái nhìn như thế theo thứ lớp gọi là nhục nhãn, pháp nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn và Phật nhãn.
Thứ tư là về mặt ứng xử giải thoát. Không bao giờ hơn thua, tranh luận với ai bất cứ điều gì, chấm dứt hẳn sự hơn thua. Ứng xử với tất cả bằng sự tha thứ rộng lượng, tình thương yêu nồng ấm của con tim, cảm thông với sự bế tắc, hạn chế, khổ đau và tất cả những đặc điểm gây khó chịu, khổ đau cho con người và các sự sống. Luôn luôn ứng xử rất bình đẳng, không thấy người thân hơn người dưng, người quen hơn người lạ. Không thấy sự hơn thua giữa con người với các loài sinh vật khác, không thấy loài người là tối thượng… mà đều thấy bình đẳng. Và cũng thấy rõ, sự sống nói chung hình thành trong các điều kiện môi trường, là sản phẩm của môi trường. Nên quý trọng, nâng niu môi trường vì biết chính môi trường tạo ra mọi sự sống. Ngoài ra, các phẩm chất tích cực tự hiện và phát triển như lòng kiên nhẫn, siêng năng làm việc, thưởng thức đời sống tinh thần bình an.

Về mặt ứng xử trong đời sống, có sự phản ứng đặc biệt nhanh nhạy, khi người khác hỏi thì trả lời một cách tự nhiên, trả lời bằng trực giác, không cần đắn đo, không kịp suy nghĩ gì cả, giống như phản xạ tự nhiên, hết sức nhanh chóng. Chính đầu óc kinh nghiệm của mình và người hỏi đều không ngờ mình sẽ ứng xử nhanh và phù hợp như vậy. Khi đó tôi cũng không hiểu được tại sao lại có sự ứng xử như thế. Thông thường khi người khác hỏi điều gì đó thì mình liền tự động phóng ra một câu hỏi khác tương ứng, nghĩa là mình luôn ở thế chủ động, không bao giờ rơi vào bị động. Trong lúc hỏi đáp, tự nhiên mình biết rõ người ta do đâu mà hỏi, biết được rằng họ hỏi từ trong kinh nghiệm đúng sai, hơn thua… nơi bản ngã của họ.

Nhiều khi, dù muốn hay không, có ý thức hay không thì câu hỏi của họ vẫn đều xuất phát từ bản ngã, từ kinh nghiệm sống. Bản ngã của họ là sự tin vào suy nghĩ, ý tưởng, khái niệm họ sử dụng, hay logic của kinh nghiệm mà họ cho là đúng; họ dính với khái niệm, chữ nghĩa, sách vở, truyền thống… cùng tất cả những điều khác mà họ đã học được. Bởi họ không phải là người thấy biết thuần túy vô nhiễm, mà toàn bộ con người họ bị dính líu với kinh nghiệm trong cuộc sống nên không còn tự do. Họ nhìn không tự do và hỏi không từ đầu óc tự do. Mình thấy biết rõ câu hỏi của họ xuất phát từ kinh nghiệm cuộc sống, từ bản ngã của họ. Khi mình trả lời họ bằng câu hỏi thì câu hỏi đó xuất phát từ sự hồn nhiên của người thấy biết thuần túy. Hỏi hay nói chuyện bằng cách đó thì làm cho họ ở trạng thái bị động nhưng vẫn cảm thấy êm dịu, nhẹ nhàng, thoải mái chứ không phải khó chịu, và nhờ đó mình giúp họ mở ra một nhận thức mới. Mình trả lời bằng cách đặt ra câu hỏi hay lặng im, nở nụ cười hoặc trả lời trực tiếp cũng đều làm cho họ khai mở được trí tuệ bên trong, nên họ vui và cảm thấy hài lòng. Do vậy, cách ứng xử trở nên rất đặc biệt.

Luôn luôn thấy rõ sự đối kháng và nguồn gốc sinh ra sự đối kháng trong cách ứng xử của người khác. Nguồn gốc đó là lòng chấp vào kinh nghiệm sống. Nhờ thế, khi ứng xử thì mình vượt qua sự đối kháng ấy nên không bị dính chặt vào thế giới kinh nghiệm của họ. Ứng xử rất trơn tru, hồn nhiên và làm cho người ta không trách móc gì được nếu họ còn mặc cảm.

Luôn lấy tình thương và thông cảm làm phương tiện trong hành xử.

Cứ ứng xử như vậy thì sẽ không bị chuyện của cuộc đời lôi đi. Trong quan hệ với người khác, không thể bị người ta dùng tình cảm, quyền lực, tiền bạc, vũ lực hay bất cứ thứ gì để chinh phục. Hoặc họ có dùng nhưng chắc chắn không thể chinh phục được, nên mình không bị cuốn vào các mối quan hệ ấy. Trong quan hệ giữa mình với tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, công việc… cũng luôn luôn được tự do, không bị biến chất vì chúng, không bị chúng bức bách. Nhiều khi ứng xử mà cần dùng khái niệm, định nghĩa, câu chữ trong cuộc đời thì dùng, nhưng không bao giờ bị sa lầy vào đó.

Trong suốt thời kì làm việc từ khi tôi đã tỉnh thức, tất cả chữ nghĩa, khái niệm, ngôn ngữ, từ điển, truyền thống… tôi đều đánh giá, xem xét lại hết. Không bao giờ tôi là nô lệ cho chữ nghĩa, kể cả chữ nghĩa trong kinh sách, tôi hoàn toàn tự do. Cho nên, người đã đạt được trí tuệ bên trong rồi thì sẽ hoàn toàn tự do với tất cả khái niệm, chữ nghĩa. Tôi chưa nói mình đã đạt hay chưa, nhưng qua những lần nói chuyện, quý vị đã thấy rất rõ tôi hoàn toàn tự do với chữ nghĩa. Hoặc các quý vị theo học tôi trong suốt hơn 10 năm qua như Hiền giả Giác Tuệ, không hề thấy tôi lệ thuộc hay bắt chước chữ nào đó trong kinh sách. Tôi hoàn toàn không vay mượn, cũng không nhầm lẫn. Trong trường hợp cần dùng thì tôi dùng nhưng tôi biết rất rõ và giải thích lí do dùng. Do vậy, đối với tôi, toàn bộ định nghĩa trong từ điển không còn giá trị.

Vì thế mà lúc đầu, nhiều người nói chuyện với tôi hỏi rằng: “Sao thầy Duy Tuệ nói về đạo Phật mà không có chữ nào giống trong kinh sách?”. Tôi im lặng, không nói gì cả, chỉ thấy thương họ thôi. Tại sao phải đem chữ trong kinh và cuộc đời dán kín từ đầu đến chân để làm gì? Rõ ràng vì chưa tự do, chưa mở được trí nên cần phải đem chữ của cuộc đời mà dán khắp thân thể để được người ta biết mình thuộc hạng nào đó. Thiên Chúa giáo dán chữ của Thiên Chúa giáo, Phật giáo dán chữ của Phật giáo, Hindu, Hồi giáo dán chữ của Hindu, Hồi giáo… nên luôn luôn ở trong tình trạng lệ thuộc. Còn khi mở được trí bên trong thì hoàn toàn không bị dính mắc, không quan tâm đến những chữ mà người đời hay kinh sách thường nhắc mà vẫn biết Phật chỉ gì, kinh muốn nói gì.

Đặc điểm nữa trong cách ứng xử đặc biệt là không thắc mắc những chuyện ở đời, chuyện người làm đúng, sai, phản đối, biểu tình, đàn áp... Bởi vì mình biết hết, thấy hết rồi, đã hiểu được con người bị đầu óc, cấu trúc tư tưởng bên trong sai khiến ra làm sao, bị khái niệm, tư tưởng tạo thành thành quách bên trong như thế nào, đã thấy rõ tại sao phải biểu tình, nổi loạn, chống đối và tại sao phải đàn áp, bày chuyện lừa gạt, chuyện này chuyện kia ở đời…

Thứ năm là, tất cả những điều mình suy nghĩ, làm, nói hay ứng xử với người đối diện thì mục đích duy nhất là giúp họ vượt khỏi lòng chấp và mở được tâm trí, để được sống bình yên, giải thoát ra khỏi khái niệm, chữ nghĩa mà họ dùng.

C. Sự thật nhiệm màu

Mỗi giai đoạn trải nghiệm cho tôi thấy một sự thật hiển nhiên để qua đó ổn định đời sống tinh thần của mình.

1. Sự thật thứ nhất là có năng lượng hạnh phúc không điều kiện hiện hữu triền miên nơi chính mình.

- Hạnh phúc hay phúc lạc kì lạ nhất, huyền ảo nhất, rộng khắp nhất, hoàn hảo nhất, sâu thẳm nhất, nhiệm màu nhất, bền bỉ, ổn định và đáng hưởng nhất mà đời sống do đầu óc suy tính và tác động vào sẽ không bao giờ có được.

- Trạng thái hạnh phúc kì diệu, vô giá này sẽ xuất hiện khi suy nghĩ không hoạt động được.

- Trạng thái hạnh phúc này không phụ thuộc vào sự làm việc của cái đầu và dĩ nhiên là không phụ thuộc vào cuộc sống mang tính hình thức.

- Hạnh phúc hay phúc lạc này là chung cho mọi sự sống của hành tinh này và cho tất cả sự sống của các hành tinh khác.

2. Sự thật thứ hai là, quan sát cẩn trọng từ trong đầu óc cho đến bên ngoài đích thực là lẽ sống thật, là sinh mệnh của con người!

- Quan sát càng chính xác bao nhiêu thì cuộc sống càng hạnh phúc bấy nhiêu.

- Quan sát giúp đầu óc nhẹ nhàng nhất, mới mẻ và dễ chịu nhất!

- Trải nghiệm này cho tôi thấy rõ rằng, trong lúc bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt không làm việc được thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra, đó là đời sống với tính quan sát cẩn trọng chứ không phải là những ý kiến hay ý nghĩ trong đầu óc. Đây là đời sống ổn định, đời sống thật sự là sống chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực. Trong lúc sự trải nghiệm xảy ra, bộ máy suy nghĩ đã bị khoá, người đang sống dựa trên quan sát biết rõ bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt và đầu óc không thể ra lệnh, không thể hiện hữu các khái niệm về tên gọi cho chính mình, cho các vật thể chung quanh. Mọi thứ mình thấy qua mắt chỉ là những hình ảnh rời rạc của một thực thể thống nhất đang hiện bên dưới chúng. Trọng lượng cơ thể nhẹ hẳn, tất cả đất đá và những đồ vật hằng ngày mình thấy giờ đây hoàn toàn mới và chưa có hay không có tên gọi.

Tóm lại, mọi thứ dừng lại ở giai đoạn quan sát. Và ngay lúc ấy, khi tôi rờ vào đâu, nhìn vào đâu đều tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình.

3. Sự thật thứ ba là khi mọi thứ nguyên liệu của bộ máy suy nghĩ biến mất thì tôi nhìn thấy nguyên nhân gây ra khổ đau cho chính mình là do cái đầu suy nghĩ.

Cùng với sự nhìn thấy ấy, tôi thấy năng lượng sáng tạo đời sống hạnh phúc và tình yêu vô tận của con người đã bị chính cái đầu suy nghĩ tàn phá, khống chế hay che lấp.

D. Những thông điệp từ tỉnh thức sâu thẳm

1. Thông điệp thứ nhất: Có một thực tại tối hậu là cõi an lạc diệu kì sâu thẳm độc lập hoàn toàn với đời sống vật chất được mất có không bên ngoài.

Thông điệp thứ nhất từ sự trải nghiệm tỉnh thức sâu thẵm lần đầu là, dưới đời sống hình tướng có một thực tại tối hậu là cõi an lạc diệu kì sâu thẳm độc lập hoàn toàn với đời sống vật chất được mất có không bên ngoài và với thế giới tinh thần như kiến thức, ý tưởng, quan điểm sống, triết lý sống, các hình ảnh hữu tưởng khác bên trong đầu óc.

Cõi an lạc này hiện ra trong trạng thái nhận thức tuyệt đối tự do với đầu óc suy nghĩ.

Theo sau trạng thái an lạc là nhận biết tự do xuất hiện, một cảm xúc yêu thương con người dâng trào tràn ngập trong cái thấy và nhận biết của suy tư. Cảm xúc yêu thương vô bờ bến tràn ngập này xuất hiện do đầu óc nhận thức rằng con người có thể vĩnh viễn không thể biết và hưởng được thứ an lạc vô biên kì diệu sẵn có và sẽ hiện khi nhận thức độc lập xuất hiện. Con người không thể hưởng được kho báu an lạc sâu thẳm  vô tận chỉ có nơi con người. Mọi hướng truy tìm hạnh phúc mà con người tin rằng sẽ đạt đều sai đường và không bao giờ đến đích.

Hai tình huống chìm đắm trong cõi an lạc sâu thẳm bên trong và cảm xúc yêu thương với loài người bên ngoài diễn ra rất nhanh và có tính trực giác không qua quá trình suy tư của suy nghĩ.

2. Thông điệp thứ hai: Trong đầu óc con người có một thế giới, một trạng thái vận động tự do với thế giới khái niệm, nó chính là sức mạnh thật của con người. Tất cả  đời sống hữu tướng còn lại là công cụ cho sức mạnh này thể hiện.

Trải nghiệm tỉnh thức sâu thẳm lần thứ hai đưa ra thông điệp rất rõ ràng rằng trong đầu óc con người có một thế giới hay trạng thái vận động độc lập hay tự do với thế giới khái niệm. Trong tình trạng này, suy nghĩ không thể làm việc được. Hình ảnh của vạn vật là những bóng mờ của bản thể độc lập này. Hình ảnh vạn vật và các quan niệm về giá trị trong đầu óc con người quả thật nhỏ bé đến mức không thể hình dung về kích cỡ và trọng lượng của chúng được! Con người có khả năng chìm đắm trong bản thể tuyệt đối và vô tận vĩ đại mầu nhiệm của bản thể này.

Tính nhận thức hay tính biết tuyệt đối trong bản thể tuyệt đối của đầu óc chính là thế giới bí mật sâu thẳm nhất của con người. Nó hoàn toàn mang tính chất tuyệt đối bí mật và huyền diệu của không gian bao la vô tận. Nó chính là sức mạnh thật của con người. Tất cả  đời sống hữu tướng còn lại là công cụ cho sức mạnh này thể hiện

3. Thông điệp thứ ba: Thấy rõ sự rắc rối, nguy hiểm, gây ra không biết bao nhiêu vấn đề của con người chính là cái đầu, chính là bộ máy suy nghĩ.


Lần thứ ba là, toàn bộ ý tưởng, ý nghĩ, quan điểm, quan niệm, lòng tin, tài sản kiến thức… bỗng dưng sụp đổ và tan biến hết không còn lại chút dấu vết nào, không còn gì. Tôi không còn gì, như người trắng tay không còn tài sản và mất hết một cách tự nhiên. Giống như là tỉ phú, triệu phú nhưng bỗng dưng trắng tay, không còn gì.

Nhưng ở đây, có sự khác biệt lý thú là : Một triệu phú sau một đêm thức giấc biết mình mất hết tài sản thì có thể bị đột quỵ. Trong khi đó, sự biến mất tài sản trong đầu óc thì ở đây lại hiện ra một thế giới tuyệt hảo cho đầu óc mình! Rồi từ bây giờ các sản phẩm của đầu óc chỉ để lại sự tuyệt hảo cho chính mình, cho cuộc đời này chứ không còn cảnh phiền lụy như trong quá khứ nữa!

Một thông điệp phát đi từ trạng thái trải nghiệm này rằng nguyên nhân của khổ đau chính bộ máy suy nghĩ gây ra. Bộ máy suy nghĩ đi từ kinh nghiệm cuộc sống, và nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ làm việc là kinh nghiệm.

Cho nên, bộ máy suy nghĩ hình thành con đường riêng. Nó nói phải có nhiều kiến thức mới thành vĩ đại, phải có quan điểm, quan niệm về cuộc sống, nó cho các khái niệm và định nghĩa là thật. Tức là, bộ máy suy nghĩ cuốn tỉnh thức đi vào với nó và tỉnh thức không còn nữa.

Con người của bộ máy suy nghĩ đem lại rất nhiều nỗi lo, sầu, buồn phiền, ích kỷ, hẹp hòi, ghen tuông, nhỏ nhen, bản ngã… Nó cho rằng ta phải hơn người này, thua người kia thì chịu không được, dứt khoát không phải thua như thế, phải hơn người hoặc ta phải là người như thế này... Tức là, lúc nào cũng đi đến sự đối đầu với người khác và chính mình. Rốt cuộc, mình bị bại hoại về tinh thần, quay cuồng trong đấy mãi và bị nhốt, bị trói chặt trong mớ bòng bong đó.

Con người thật bị bộ máy suy nghĩ giam nhốt mà không biết nên nghĩ đó là mình, khái niệm, kinh nghiệm có được là mình, kiến thức có được, cuộc đời từng trải, ý tưởng hay quá… là mình. Tất cả những thứ đó dồn lại và cho rằng bản thân là như thế. Rồi cứ chỉ ở trong khuôn khổ chật chội của bộ máy suy nghĩ mà thôi.

Suy nghĩ bắt con người chạy theo, dẫn dắt con người đi và đồng hóa rằng: “Mày là tao, tao chính là mày chứ không ai hết. Bộ máy suy nghĩ là mày, con người thật của mày chính là bộ máy suy nghĩ". Cho nên, cứ theo bộ máy suy nghĩ mà sống”. Cuối cùng, mình trở thành con người nhỏ xíu, không có tự do. Nghĩa là không còn tỉnh thức nữa, mất tự do hoàn toàn!

Khi suy nghĩ nổi lên thì đại tỉnh thức không còn. Thế giới vô lượng vô biên với sức mạnh hết sức kì diệu không còn nữa vì bị suy nghĩ lôi đi mất. Như vậy, lần thứ ba, trạng thái chìm đắm trong đại tỉnh thức đưa ra thông điệp rất rõ về bộ máy suy nghĩ.



E. Con đường tuyệt vời dành cho loài người

Qua những trải nghiệm này cũng cho tôi thấy rất rõ:

1. Bộ óc hay đầu óc hoàn toàn có khả năng làm việc thật hoàn hảo

Bộ óc hay đầu óc hoàn toàn có khả năng làm việc thật hoàn hảo trong trạng thái không chứa bất cứ thứ nguyên liệu nào trong đó như kí ức, kiến thức trong cuộc sống, khái niệm hay triết lí sống cho riêng mình, niềm tin tôn giáo, niềm tin vào một học thuyết hay triết thuyết để xây dựng một xã hội, hay xây dựng một cuộc sống cho cá nhân hay cho gia đình.

2. Sống và làm việc, yêu thương theo đầu óc mở, không theo khuôn phép nào

Không còn một ý niệm hay ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, cho một gia đình, hay cho một cộng đồng quốc gia hay quốc tế. Sau này, tôi tạm gọi là sống và làm việc, yêu thương theo đầu óc mở, không theo khuôn phép nào.

3. Thủ phạm gây khổ đau tinh thần (và đôi khi cả thể chất) mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ.

Trải nghiệm và nhận biết rằng mọi ý tưởng, khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩ, ý nghĩa của các chữ viết, quan niệm sống, sự tiêm nhiễm các triết thuyết hay học thuyết có thể rơi rụng hoàn toàn trong đầu óc, và không gian trống rỗng vô tận trong đầu óc chỉ mang năng lực nhìn thấy và hiểu biết vô tận sẽ chiếu soi và cho ta biết rằng, thủ phạm gây khổ đau tinh thần (và đôi khi cả thể chất) mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là suy nghĩ. Và đi cùng với suy nghĩ là con người không nhận biết được điều này, mà trái lại, còn tin tưởng và bám chặt lấy nó, không chấp nhận từ bỏ nó.

4. Con đường chưa ai đặt chân tới, con đường ngập tràn hạnh phúc, khai mở khả năng rộng lớn đến vô tận của sự sáng tạo, của tình yêu, của sự làm việc và của sự hưởng thụ trọn vẹn cuộc đời

Qua ba lần trải nghiệm, tôi đã bỏ ra thời gian hai năm để thưởng thức thứ hạnh phúc mà mình chưa bao giờ trải nghiệm.

Nó gần giống như tôi thấy lại một con đường xưa cũ, con đường mà tạo hoá ban cho loài người tự bao giờ vẫn còn đó, không có một chút bụi bám lên, không có chút tì vết của thời gian do con người quy ước, không có một bóng người đi trên con đường, chỉ mỗi mình tôi.

Cho dù thật sự cô độc nhưng hoan lạc ngập tràn cho một người đã vượt ra khỏi lịch sử về tuổi tác, nguồn gốc, hình tướng, màu da, tiếng nói, kiến thức, học thức, ngôn ngữ và văn hoá cũng như văn minh.

Tôi tự biết đây là con đường tuyệt vời dành cho loài người vẫn còn bị che dấu bên dưới đầu óc của mình.

Không có lối vào con đường này nhưng hơn mười năm qua, tôi hết sức cố gắng để đưa những đệ tử thiêng liêng cao quý đi cùng tôi và truyền sự màu nhiệm của con đường này cho cuộc sống của họ với mọi người chung quanh.

Cũng có thể nói theo cách khác là, ba giai đoạn trải nghiệm đã đưa đầu óc tôi vào thế giới sáng tạo ra vô lượng, vô biên các con đường để chẳng những dẫn đến chấm dứt hoàn toàn sự khổ đau, mà còn cho ra những con đường khai mở khả năng rộng lớn đến vô tận của sự sáng tạo, của tình yêu, của sự làm việc trong đời và của sự hưởng thụ trọn vẹn cuộc đời đầy chông gai, bão táp và thiên biến vạn hoá này.

5. Không tin vào suy nghĩ  và lấy sự quan sát và làm lẽ sống

Sau ba lần trải nghiệm như nói trên, tôi bắt đầu tập thành thói quen một số phương pháp để giữ bền vững không gian Minh Triết trong đầu óc mình và tôi thật sự hạnh phúc!

Đến tận bây giờ, tôi cũng vẫn thường xuyên quan sát và theo dõi các diễn biến trong đầu óc của mình.

Tôi lấy sự quan sát làm lẽ sống của mình, coi nó là đời sống thật, là hơi thở cho Minh Triết trong đầu óc và lấy việc không tin vào suy nghĩ của mình làm lẽ sống cho riêng mình.

Tôi thật sự hạnh phúc!

6.Ba giai đoạn của cuộc đời

Để minh hoạ cho dễ hiểu về các trải nghiệm nêu trên, tôi tạm chia cuộc đời tôi ra làm ba thời kì, và thời kì sau cùng tạm gọi là đời sống hạnh phúc. Tôi cũng đã nói những điều này trên skype cho nhiều người nghe. Ba thời kì đó là:

a. Thời kì nước mắt hồn nhiên của tuổi thơ
b. Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do chưa hiểu về bí mật của cái đầu.
c. Và thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi.
Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì thứ ba.

Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình.

Đến thời kì thứ ba, rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Quý vị có thể nói đến thiên đàng cho một em bé được không? Em bé đang ở trong thiên đàng của chính đầu óc nó và của cuộc sống chung quanh. Nó thật sự không có nhu cầu thiên đàng. Đây là thời kì trưởng thành của con người nhưng con người chưa đủ khả năng nhận biết, phải chờ đến thời kì thứ ba vậy.

Nói đến hạnh phúc hay trưởng thành là nói đến sự thăng hoa về tinh thần, về đầu óc chứ không nói đến kiến thức, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế hay thế quyền hoặc thần quyền. Chữ “quyền” không nằm trong phạm trù trưởng thành hay hạnh phúc.

Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần thiết. Tôi khuyên quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời. Kiến thức không đem lại sự thay đổi ngược chiều để tận hưởng hoan lạc trong giai đoạn thứ ba này.

Tài liệu được biên soạn từ bảo phẩm: Sống Minh Triết và Cẩm nang thực hành Thiền Minh Triết – tác giả Duy Tuệ.