"Khai mở nhận thức sâu thẳm và duy trì cảm xúc tình người thiêng liêng"

....

.

.
.

ABA Quotes

Tham khảo: TTVMPT 05 - Bình Minh Của Văn Minh Hy Lạp (The Rise of Greek Cilivization)

Những chiến binh, những vận động viên, những nghệ sĩ và những thực dân…Thủy thủ và cướp biển…Nhà buôn và hiền triết…Hy Lạp cổ đại không bao giờ ngưng nghỉ …tạo ra những thử thách mới lạ cho chính mình. Và qua tài năng kiến tạo và phá hủy của họ, chúng ta nhận ra chính mình. 





Văn minh phương Tây thực sự bắt nguồn từ Hy Lạp. Các kiểu thể chế, các kiểu tư duy và cả những kiểu tội phạm đều có sự liên quan đến chủ nghĩa duy lý của tư tưởng Hy Lạp. Những người Hy Lạp không đón nhận thế giới trên sự tin cậy. Họ không tin thế giới là ý chí của Chúa; Họ không bỏ mặc bản thân cho số phận; Thay vào đó, họ đưa ra câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời. 

Nhà hiền triết Hy Lạp Plato từng viết rằng Triết Học là đứa con của sự thắc mắc. Nó là món quà họ thu nhặt được khi tìm hiểu những thứ làm họ đặt câu hỏi, những thứ đánh thức sự hiếu kỳ vô độ của họ. Những gì họ thu lượm được không ổn định, không an toàn nhưng thật là vĩ đại.

Hãy bắt đầu với Hy Lạp của 3200 năm trước, vào khoảng 1.200 năm TCN khi mà hàng loạt cuộc xâm lăng và chiến tranh làm rung chuyển thế giới cổ đại. Từ xứ Anatolia tới Ai Cập. Một cảnh trong sử thi Odyssey.

Hầu hết những hiểu biết của chúng ta về 400 năm, giữa năm 1200 và năm 800 TCN  là đều từ sử thi Odyssey và một kiệt tác khác, sử thi Iliad. Cả hai đều được coi là tác phẩm của Homer. Tác phẩm thứ nhất, “Iliad” kể về cách người Hy Lạp đã bao vây và tiêu diệt thành Troy – một thành phố châu Á gần với Hellespont. Tác phẩm thứ hai, “Odyssey” kể về những gì xảy ra với Odyseus, vuya đảo Ithaca và là người đứng đầu Hy Lạp sau cuộc chiến thành Troy. 

Dường như thế giới được miêu tả trong cả 2 bài thơ giống với giai đoạn đương thời giữa năm 1.200 và 800 TCN. Một dạng thời kỳ trung cổ “Đen Tối” vì chúng ta biết quá ít về chúng và bởi vì cuộc sống còn dữ dội và ngắn ngủi hơn thông thường. Chúng ta thấy một xã hội của những chiến binh và những thủ lĩnh tầm thường háo danh và hám lợi, tàn nhẫn, thích đua tranh nhưng có một quy tắc hành xử tạo ra 1 quy tắc lâu đời để sau này hình thành khái niệm chủ nghĩa anh hùng, tính quý tộc và cuối cùng là tinh thần thượng võ.

Cho đến thế kỷ thứ 8 TCN, cuộc tìm kiếm vinh quang đầy quả cảm đã được những người Hy Lạp nghi thức hóa trong những cuộc thi đấu vĩ đại. Chúng ta biết về điều đó nhất qua các cuộc thi đấu được tổ chức ở Olympia vào nằm 776 TCN. Tên cuộc thi trong tiếng Hy Lạp là “Wasagon” nghĩa là “cuộc đấu” hay “thi đấu”. Từ đó chúng ta có từ phái sinh là “Agony” (Đau đớn cực độ). Niềm vinh hạnh mà bạn đạt được lớn đến nỗi cả sự đau đớn tột cùng và thậm chí là mạng sống đều không phải là giá quá cao phải trả để chiến thắng.

Trên phương diện khác, những vận động viên Hy Lạp lại rất thực tế  và cũng rất “duy vật”. Các vận động viên đối diện với sự đau đớn trong các cuộc thi bởi vì họ muốn giành giải thưởng. Người chiến thắng sẽ được cung cấp đồ ăn, cái mặc và có thể được cấp nhà ở thành phố cho suốt phần đời còn lại và anh ta không phải nộp thuế. Trong nhiều thế kỷ sau đó, suy nghĩ của các vận động viên Hy Lạp về các cuộc thi đấu trở nên ngày một thực dụng do ảnh hưởng của những người coi vật chất là vấn đề cốt lõi. Sự hy sinh cao quý là cái mà họ muốn thấy chứ không phải chỉ đơn giản là những tham vọng vật chất tầm thường. Và như vậy hình ảnh về vận động viên – những người chịu đựng để tìm kiếm vinh quang đã trở thành một phần quan trọng của nền văn hóa Hy Lạp – La Mã. Nó được nâng lên một tầm cao mới vào buổi bình minh của Kito giáo – tất nhiên tôn giáo này cũng là một phần của nền văn hóa đó và cũng tham gia vào trận chiến gay go chống lại ma quỷ và tội ác. 

Và sau đó nền văn hóa Hy Lạp – La Mã đã được hồi sinh bởi những tín đồ đạo Tin Lành thế kỷ 16 và những người dưới triều đại Victoria thế kỷ 19. Ngày nay nó vẫn còn hiện hữu trong sự phản đối của những người hiện đại khi họ phát hiện ra trong những anh hùng của họ, phần thương nhân cũng lớn chẳng kém gì phần vận động viên. Giá trị anh hùng mà sử thi Iliad và Odyssey thể hiện được truyền tụng cho tới tận ngày nay, sau gần 3.000 năm. Nhưng điều đó không có nghĩa là những anh hùng của Homer giống như kiểu hiệp sĩ thời trung cổ - những người mù quáng lao vào cuộc chiến vì danh dự. Người anh hùng của Homer có thể cao quý nhưng cũng rất khôn ngoan. Odysseus chọc mù mắt người khổng lồ Cyclops. Odysseus không chỉ là một thủy thủ, một vận động viên tài giỏi, ông còn rất nhanh trí và láu cá – bậc thầy về “đánh lừa và mưu mẹo” như lời nữ thần Athena nhận xét về anh ta trong sự ca tụng hơn là khiển trách. Athena so sánh Odysseus với bản thân rằng: “ Người chắc chắn là số một trong số người trần về tranh luận và diễn thuyết. Còn ta nổi tiếng trong các thần về sự mưu mẹo và gian xảo”. Điều đó không chỉ nói cho bạn về những anh hùng Hy Lạp mà còn về tín ngưỡng Hy Lạp. 

Các vị thần của họ như Pluto và Persephone có thể là siêu phàm nhưng mặt khác họ cũng giống con người, đàn ông và phụ nữ với sinh lý và cảm xúc của con người. Sự nhân cách hóa hình tượng các vị thần là một điều mới mẻ - Một cuộc cách mạng trong tôn giáo. Các vị thần cũng như con người, sinh ra để được thờ phụng với những cung điện như cung điện ở Sicily – nơi họ sống, cất giữ lễ vật và được thờ cúng. Nhưng chỉ có các vị thần được thờ cúng, không phải là các Pharaoh, không phải các vị vua. Không giống như những người Ba Tư, người Hy Lạp không thờ cúng người, chỉ thờ cúng các vị thần. Lúc này, lần đầu tiên: “Con người là thước đo cho mọi vật” – như nhà thông thái Hy Lạp Progoras từng nói vào thế kỷ thứ 5 TCN. 

Đó là một sự khẳng định lớn lao trong một thế giới mà đàn ông và phụ nữ dường như còn rất nhỏ bé và có thể chính họ cũng cảm thấy mình rất nhỏ bé trong vũ trụ cực kỳ to lớn, cực kỳ bí ẩn mà họ gần như không hiểu gì về nó. Và còn nữa, trong cùng thời kỳ này chúng ta tìm hiểu về một chính khách thành Athen, Pericles – ông ca tụng không chỉ con người mà là một con người tự do và sự tiến bộ trong quyền tự do cá nhân. “Chúng ta sống như những công dân tự do, không chỉ trong cuộc sống cộng đồng mà trong cả thái độ đối với mỗi người khác trong những công việc thường ngày”, Pericle nói “ Chúng ta không giận những người hàng xóm nếu anh ta cư xử theo cách anh ta thấy thoải mái. Chúng ta lườm nguýt nếu anh ta không làm gì gây hại, điều đó có thể làm tổn thương”.  Trong số những di tích của Athen vẫn còn lại những công trình kiến trúc từng khiến Pericle coi Athen như trung tâm của nghệ thuật, văn học và kiến trúc vĩ đại. 


Nhưng Athen chỉ là một trong số hàng trăm thành bang của Hy Lạp trong thế kỷ thứ 5 TCN. Mỗi thành bang được gọi là một “Apolis” – nó có nghĩa vừa là “thành phố” vừa là “bang”, cũng có nghĩa là dân quốc, tức là một nhóm người trong một tổ quốc tự trị. Những thành bang này trải dài từ biển Đen tới miền Tây Địa Trung Hải. Vùng tập trung đông dân nhất là phần lục địa của Hy Lạp, trên các hòn đảo ở Ionia. Trên bờ biển phía tây của Tiểu Á – nơi những thành phố sầm uất và hiện đại nhất được dựng lên vào thế kỷ thứ 7 và 6 TCN bởi vì chúng gần nhất với thương mại và văn hóa của vùng Trung Đông. Phạm vi của Poleis (thành bang) nhỏ, một phần vì vị trí địa lý Hy Lạp, Ionia và các hòn đảo nằm giữa thế bàn cờ tạo bởi những núi, thung lũng và các đồng bằng nhỏ thuận lợi cho định cư đơn lẻ, cách tiếp cận dễ dàng nhất là từ biển bao quanh chứ không phải từ đất liền. Vì thế biển trở thành con đường chính của người Hy Lạp. 

Ở trên biển, người Hy lạp đi thuyền, buôn bán, tấn công, cướp bóc. Nhưng những thành bang như là Selinus thì di tích của nó cũng là một thành phố nhỏ bởi người Hy Lạp nghĩ nó nên nhỏ. Plato cho rằng, một thành phố lý tưởng nên có khoảng 5000 công dân – nghĩa là dân số khoảng 20.000 nếu tính cả người ngoại quốc. Phụ nữ, người ngoại quốc và nô lệ tất nhiên đều không có quyền công dân ở Hy Lạp cổ đại. Nhưng ở thời điểm đó, điều này là sự thật hiện hữu ở mọi nơi trên thế giới cho đến tận thế kỷ 19. 

Vì thế nên Hy Lạp có một vài thành bang thuộc loại…và ở thế kỷ thứ 5 TCN chỉ có 3 thành phố có hơn 20.000 công dân, tức là tổng số khoảng 100.000. Athen là thành bang nổi tiếng nhất trong số đó. Nhưng dù tầm vóc của các thành phố như thế nào thì mỗi thành cổ Hy Lạp có phong cách, luật lệ và lòng yêu nước riêng. Và cùng một thời điểm, mỗi thành phố cùng chung 1 niềm tự hào là người con Hy Lạp – một phần của thế giới Hellas, không phải là một đất nước hay một chủng tộc mà là một cộng đồng văn hóa, một ý niệm cực kỳ hùng mạnh. Theo các sử thi của Homer, tất cả cộng đồng Hellas đều có chung tổ tiên – một vị anh hùng có tên Helan hay Helenus – và cùng tham gia vào cuộc chiến thành Troy. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, ý thức của cộng đồng này có thể xuất phát từ ký ức hào hùng của cuộc chiến chống Ba Tư trong khoảng thời gian từ giữa thế kỉ thứ 6 TCN đến đầu thế kỷ thứ 5. Người Hy Lạp đã thách thức và đứng vững trước thế lực vô cùng hùng hậu của đế chế Ba Tư. Họ đánh bại người Ba Tư không chỉ một lần mà nhiều lần. Đặc biệt nhất là ở Marathon vào năm 490 TCN, ở Salamis vào năm 480 và cuối cùng là ở Platanea vào năm kế tiếp. 

Trận Marathon và Platanea là những chiến thắng vĩ đại mà người HL gọi là “Hoplites”- bộ binh có kỷ luật được trang bị vũ khí hạng nặng chiến đấu trong một đội hình khép kín. Những hoplites này trở thành nền tảng cho chiến thắng quân sự của Hy Lạp trong 200 năm sau đó. Nhưng trận Marathon và Plataea cũng là những chiến thắng vĩ đại của tinh thần cộng đồng. Những thành bang Hy Lạp lục đục với nhau phải tạm gác những mâu thuẫn để cùng nhau chống lại người Barbarian – những người không nói tiếng Hy Lạp mà nói tiếng gì đó nghe như “Bar-Bar-Bar”. Như Themistocles, thủ lĩnh người Athen nói sau khi người Hy Lạp xé nát hạm đội Ba Tư thành từng mảnh tại Salamis: “Nếu nói chúng ta đã làm được điều đó thì chúng ta ở đây không chỉ là những người Athen mà là tất cả người HL, tất cả Hellas.” Về sau, những chiến thắng ấy nảy nở một ý thức về HL và về tinh thần HL – cái chưa từng có trước đó. Đó thực sự là một nhân tố quan trọng đưa tới niềm tự hào của người Hy Lạp, và trên thực tế là cả văn minh HL.


Chúng ta có thể nói về VMHL bởi vì dù cho có những chia cắt về địa lý, sự phân tán chính trị và những giao tranh đẫm máu không ngừng thì người HL cùng chung một nền văn hóa đơn nhất – trong ngôn ngữ, trong những thần thoại chung, trong những phong tục giống nhau, trong cùng 1 cá tính văn hóa. Dù cho họ sống ở thành phố nào, họ đều nhanh chóng tiếp thu những kĩ năng và những việc làm mà họ thấy hữu ích sau đó phát triển và biến nó thành của riêng mình. Họ học bảng chữ cái của xứ Phê Ni Xi sau đó thêm những nguyên âm và biến nó thành tiếng Hy Lạp. Họ không phát minh ra nghề gốm, nhưng họ làm nó trở nên đặc biệt. 


Cho đến thế kỷ thứ 6 TCN những người thợ gốm và các nghệ nhân khác đã đánh dấu công việc của họ - như một bước tiến mang tính cách mạng. Điều đó công bố: Mỗi nghệ sĩ là 1 cá nhân riêng lẻ. Họ sao chép bức tượng không giá đỡ của Ai Cập nhưng họ tự do hóa và nhân cách hóa hình dạng của chúng sau đó tô vẽ làm bức tượng sống động hơn. Các nghệ sĩ HL còn sáng tạo ra trường phái khỏa thân như 1 dạng nghệ thuật, thêm 1 sự khẳng định về sự tự tin của con người. Cho đến TK thứ 5 TCN, cá tính văn hóa HL đã tự khẳng định chính mình trong 1 công trình rất đồ sộ - Acropolis, thành trì  quan trọng trên đỉnh đồi của Athen. Vào năm 480 TCN, người Ba Tư đã đốt cháy Athen và mặc dù thành phố nhanh chóng được người Hy Lạp thu hồi và gây dựng lại nhưng nó vẫn như 1 đống lộn xộn trong 30 năm kế tiếp. Cho tới khi Pericle quyết định xây dựng lại Acropolis thì thành phố đã trở thành nơi ngự trị của các thánh thần với ngôi đền mới vĩ đại, đền Parthenon. Bên trong, bức tượng khổng lồ của nữ thần Athena được dựng lên để chứng minh sức mạnh của nữ thần và sức mạnh của người Athen. Tất cả được hoàn thành nhanh chóng chỉ trong 11 năm. Tốc độ đó là một thành tựu kỹ thuật xuất chúng, khiến tất cả người Hy Lạp tự hào không thua gì tầm vóc của bức tượng. Người tạo nên những cột trụ, người chỉ đạo xây dựng điện Parthenon, Phidias – được coi là 1 trong số những nhà điêu khắc vĩ đại nhất thời cổ đại.  

Chúng ta còn giữ được một vài trong những công trình vĩ đại của ông và những công trình của những nhà điêu khắc khác được thực hiện theo phong cách Phidias. Những nhà phê bình, ngày ấy và bây giờ đều ngưỡng mộ vẻ kiềm giữ, quý phái và sự cân đối trong các tác phẩm, điều đã khiến chúng trở thành kiểu mẫu cho phong cách lý tưởng và duy tâm cổ điển. Một nhà điêu khắc khác là Praxiteles, 100 năm sau thời Phidias – giữa thế kỷ thứ 4 TCN đã giải phóng những hình khối cổ điển cứng nhắc thổi vào chúng hơi ấm, điều mà chúng thiếu như chúng ta có thể thấy ở bức tượng Aphrodite of Cnidus này. Những người Hy Lạp đã đi được rất xa so với thời kỳ anh hùng của Homer không chỉ trên con đường nghệ thuật và văn hóa mà còn về chính trị. Tất nhiên từ “politics” cũng là từ phát sinh từ “Polis”.


Cuối thế kỷ thứ 6 TCN, hầu hết các thành bang đã bỏ luật truyền ngôi theo dòng dõi và thử các thể chế chính trị khác nhau. Đó là nền chuyên chế, một dạng của nền chế độ độc tài lập hiến. Nó không hẳn là không phổ biến, đó là chế độ quý tộc – chế độ của những “người tốt nhất” hay những người bẩm sinh là tốt nhất. Đó còn là nền chính trị tập trung, một nhóm nhỏ cai trị toàn xã hội. Và chế độ dân chủ - luật lệ của quần chúng, của số đông. Hoặc những dạng kết hợp của các thể chế chính trị trên như ở Athen thời Pericles. 


Ở Athen, mọi công dân đều có quyền bình đẳng. Nhưng, như Pericles đã viết vào tk thứ 5 TCN : “ Khi mà người đàn ông trở nên đặc biệt ở một khía cạnh nào đó, anh ta được tôn trọng hơn trong cuộc sống cộng đồng, không phải vấn đề về đặc quyền mà là sự công nhận của những giá trị tốt đẹp. Bên cạnh đó, những người có thể cống hiến cho xã hội sẽ không rơi vào sự nghèo khó và thân phận thấp kém. Dĩ nhiên, Pericle không có ý chính xác đến từng từ. 

Chế độ quý tộc không hẳn là luật lệ của những người tốt nhất mà là của số ít người đến từ dòng dõi giàu có lâu đời. Và chế độ dân chủ không hẳn là luật của mọi người mà chỉ là của vài nghìn người sinh ra đã là người tự do. Nhưng một người dân nghèo Athen như Demosthenes vẫn có thể trở thành nhà lãnh đạo chính trị ở thế kỷ thứ 4 TCN. Và từ thành công của ông, chúng ta có thể thấy một điều là: Một ý tưởng có thể định nghĩa những giá trị và khuyến khích những khát vọng và những giá trị, những khát vọng đó lại quay lại ảnh hưởng và thay đổi cả xã hội. Bởi cách người HL chọn người lãnh đạo và cách họ được cai trị có khuynh hướng thay đổi. Mà người HL có cảm nhận về lịch sử, không phải ngẫu nhiên mà nhà sử học cổ đại vĩ đại nhất, Thucydides là người Hy Lạp.  

Lịch sử về đàn ông, phụ nữ, về những thể chế thay đổi theo thời gian và không gian và Thucydides nhìn thấy sự thay đổi xung quanh ông vào TK 5 TCN. Không giống người Ai Cập, những người quá ấn tượng với sự tiếp nối và những triều đại lâu đời; không giống người Mesopotamian, những người quá ấn tượng với những thảm họa siêu nhiên; Thucydides chú ý hơn đến những động cơ thực tế dẫn đến các hành vi của con người. Ông cho rằng những quyết định, hành động và kết quả đến từ những yếu tố khách quan như văn hóa và kinh tế thay vì sự can thiệp của thế lực siêu nhiên. 

Tất nhiên, phần lớn người Hy Lạp đều không khách quan như vậy. Phần lớn họ đều là nông dân hoặc chủ trang trại nhỏ, thợ thủ công…Họ thường bám rễ vào những phong tục mê tín và chủ nghĩa địa phương chật hẹp. Nhưng cuộc xâm lược của người Ba tư vào TK 6 TCN và cuộc đấu tranh toàn quốc chống lại đế chế Ba Tư ở TK 5 đã hình thành 1 ý thức mơ hồ rằng thà hy sinh còn hơn sống đời nô lệ, rằng sẽ thật ý nghĩa khi đối mặt với cái chết không chỉ cho gia đình mình mà cho tất cả mọi gia đình và thậm chí cho gia đình của những người khốn khổ làng bên; (mặc dù điều này nghe có thể vừa lạ lẫm vừa hào hùng); rằng lòng nhân đạo chung, hay tinh thần HL chung giữa họ còn quan trọng hơn là những phong tục và thành kiến địa phương. Có những người còn vĩ đại hơn, quan trọng hơn – những người mà ai ai cũng nhắc tới. Đó là Themistocles, người chỉ huy hạm đội Athen trong trận thắng vĩ đại trước người Ba Tư ở Salamis năm 480 TCN. Chiến thắng này đã cứu cả HL. Một người khác cùng thời với Themistocles, đó là Aristides the Just – người quản lý tài chính của Athen và các thành bang đồng minh một cách trung thực. Miltiades, người hùng của Marathon và Hecataeus of Miletus, người vẽ ra bản đồ thế giới với tất cả các quốc gia, các thành phố và sông ngòi. Và Pythagoras, người thầy thông thái – người khám phá biết bao điều về các con số và về sự đồi bại của thế giới. 

Điều gì làm những con người đó khác biệt với những người nông dân, những người tụ tập ở Agora vào phiên chợ? Đó là Sophia – sự thông thái. Đó là Arete – đức hạnh. Những người nổi tiếng đó không khỏe mạnh hơn, to lớn hơn, hay giàu hơn và có vị thế lớn hơn. Họ chỉ thông thái hơn, và đó là lý do tại sao họ là những người kiệt xuất hơn cả. 

Nhưng nếu điều đó là đúng, chẳng lẽ những người khác không thể trở nên thông thái như họ? Chẳng lẽ một người nông dân không thể học được sao? Có rất nhiều người HL nghĩ đó là điều có thể. Và từ lối suy nghĩ đó đã mở ra một hướng nhìn mới với thế giới – điều đã định hình dòng chảy tương lai của nền văn hóa phương Tây. Chúng ta sẽ thấy điều đó trong chương sau.

DDT phiên tả và chuyển thể - 5.2011