"Khai mở nhận thức sâu thẳm và duy trì cảm xúc tình người thiêng liêng"

....

.

.
.

ABA Quotes

Duy Tuệ Học là triết lý sống kỳ diệu cho mỗi cá nhân


Duy Tuệ Học là triết lý sống, không phải là vấn đề tôn giáo
Tôi muốn xác định lại thế này, những điều mà tôi truyền trao cho tất cả quý vị suốt mười mấy năm nay, nó không phải là vấn đề tôn giáo. Và tôi thực lòng mà nói, tôi không phải là người của tôn giáo. Nhưng tôi có cảm tình đặc biệt với một số triết lý của Phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung. Tôi không phải là người của tôn giáo. Tôi cũng không sáng tạo tôn giáo, cũng không theo con đường tôn giáo. Tôi không có tư tưởng tôn giáo, không có tinh thần làm công việc của một tôn giáo nào.

Tôi muốn làm rõ điều này cho tất cả mọi người anh em của chúng ta. Để tất cả anh em chúng ta khi theo học thì biết là mình đang theo học những cái gì, có những giá trị gì, mục đích nó như thế nào và biết rất rõ người hướng dẫn mình như thế nào. Quý vị cần biết rõ về mình, biết rõ về con đường của mình, không bị mơ hồ. Cho nên tôi muốn nhắc quý vị, đây là một triết lý sống. Nói tới chữ “triết lý” thì có nghĩa là những điều hợp lý và có thể chứng minh được, chứ không phải là những điều mơ hồ. Tôi thì không học về triết học, nhưng tôi nói theo cái thấy của tôi như vậy. Đó là những điều tôi tự sáng tác ra vậy thôi. Tôi cho rằng triết lý sống - nội dung tôi nói là hợp lý và có thể chứng minh được, không mơ hồ, rất là khoa học, không phải là khó hiểu lắm mà cũng không phải là dễ hiểu lắm. Đó có thể gọi là một triết lý sống, một con đường sống, một cách thức sống, một phương  pháp sống, một tư tưởng sống. Nói rằng “đạo” chính là đường, khi ta dùng chữ đạo thì đây là con đường sống, con đường tồn tại. Mình dùng chữ “tồn tại” cho nó xác thực. Anh phải tính tới cái chuyện tồn tại của anh!
Không bỏ qua quy trình căn bản của động vật
Hôm qua tôi có chia sẻ với các cháu trong lớp học “Vườn hoa mơ ước”. Tôi đem hình ảnh con gà mẹ dẫn một bầy gà con. Con gà mẹ tập cho con nó cái gì? Con gà mẹ tập cho con gà con theo bản năng của nó, theo cái quy luật tự nhiên của nó. Dĩ nhiên nó không có đầu óc sáng tạo gì cả mà nó cứ theo quy luật tự nhiên của nó thôi. Mắt nó nhìn xuống đất, mắt nó nhìn xung quanh, mắt nó nhìn phía trước, mắt nó nhìn hai bên, rồi mấy ngón chân cào cào, rồi cái mỏ nó mổ… để nó tồn tại. Nó không nghĩ rằng ngày mai ông chủ sẽ làm thịt nó. Nó không nghĩ rằng ngày mai ông chủ sẽ bán nó. Nó đang đi kiếm ăn bên cái quầy bán thịt gà, nó thấy thịt gà, nó cũng không nghĩ rằng ngày mai nó sẽ nằm trên dàn thớt, nó sẽ nằm trên cái quầy bán thịt như thế này. Nó không có quan tâm đến điều ấy. Nó chỉ quan tâm đến nhìn, bươi, mổ để sống. Nó không quan tâm đến các lý thuyết, không quan tâm đến sự bàn cãi.
Chúng ta cũng là một loại động vật. Chúng ta có thêm bộ óc có khả năng tư duy. Nhưng chúng ta có khả năng tư duy thì không có nghĩa là chúng ta bỏ cái quy trình căn bản của động vật. Cái quy trình của quy luật tự nhiên mà chúng ta sinh ra, lớn lên và phải sống trong quy trình ấy. Quy trình ấy là bằng trực giác của tất cả các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác… để chúng ta hành động. Con gà là bươi, mổ còn chúng ta là hành động. Hành động thì gồm có cả tay chân và nhận thức. Thì chúng ta phải tôn trọng bước căn bản đó, chúng ta không thể nào bỏ qua bước cơ bản này được. Đây là quy trình căn bản của sự tồn tại tất nhiên, tất yếu. Chúng ta không thể bỏ qua giai đoạn căn bản của sự tồn tại này. Rồi thông qua cái hành động ấy, thông qua cái bước tồn tại căn bản này, anh dùng khả năng nhận thức của anh, anh dùng khả năng tình thương tự có của anh để anh phát triển kiến thức làm như thế nào. Anh tổng hợp, anh phân tích, anh rút kinh nghiệm, anh đưa ra, anh sáng tạo ra giải pháp hiệu quả nhất nhưng không thể nào mà không thông qua cái bước căn bản được. Phải từ bước căn bản để anh dùng khả năng nhận thức, phát triển kiến thức để anh tạo ra một cái sáng tạo, anh mở ra một cái mới trên cái nền tảng anh đang lao động của bước một, rồi từ đó mới nâng lên.
Anh không thể bỏ qua giai đoạn đó rồi anh ngồi anh dùng khả năng suy diễn của anh, anh dùng khả năng tư duy của anh. Anh bỏ qua giai đoạn kia, anh lại không chấp nhận giai đoạn kia, mà anh dùng khả năng tư duy, anh tưởng tượng ra, rồi lập ra một kế hoạch thì cuối cùng anh sẽ sụp đổ. Tức là anh thiếu quy trình căn bản.  Hoặc là anh chạy theo các định nghĩa về cuộc đời, về thành công hay thế này là hạnh phúc, thế nọ là thành công… Rồi anh suy tư, dùng những định nghĩa đó theo sự hiểu biết của anh, anh lại sáng tạo ra một giải pháp. Như vậy thì giải pháp đó không phù hợp với thực tế. Như vậy tức là anh tồn tại không đúng quy trình!
Cho nên, tôi muốn đưa tất cả chúng ta về nhận thức làm thế nào tồn tại đúng quy trình. Chúng ta không thể thêu dệt được, không suy diễn được. Chúng ta phải tồn tại và nhận thức đúng quy trình. Cho nên tôi gọi là triết lý tồn tại, cách thức tồn tại, con đường tồn tại, giải pháp tồn tại, phương pháp tồn tại. Anh nào mà tồn tại đúng quy trình thì rủi ro sẽ rất ít và đầu óc anh sẽ tránh sự mơ hồ.
Trong nội dung của Triết Lý Sống Kỳ Diệu này, tôi chia ra làm ba phần.
- Phần thứ nhất : Nền tảng của Triết Lý Sống Kỳ Diệu;
- Phần thứ hai : Những đặc điểm của Triết Lý Sống Kỳ Diệu;
- Phần thứ ba : Cách thể hiện Triết Lý Sống Kỳ Diệu cho mỗi hiền giả

A. Nền tảng của Triết Lý Sống Kỳ Diệu
Tôi tạm chia ra bốn nền tảng của triết lý này.
1. Nền tảng thứ nhất: Ý thức hướng về khả năng nhận biết tự có
Nền tảng thứ nhất là chúng ta dựa trên ý thức của chúng ta hướng về khả năng nhận biết tự có trong mỗi người chúng ta. Tôi nói đi nói lại mãi cái này. Hôm nay giống như là tôi tổng kết các vấn đề quan trọng cho quý vị, cho nó rõ nét hơn vậy thôi.
Nền tảng thứ nhất là chúng ta dựa trên tính nhận biết tự có, khả năng nhận biết tự có. Chứ chúng ta không dựa trên bất cứ một lý thuyết nào, không dựa trên bất cứ học thuyết nào, không dựa trên bất cứ một tư tưởng nào, không dựa trên bất cứ một khái niệm nào, một sự chỉ dẫn nào, cái truyền thống nào. Chúng ta dựa trên cái mà trong người chúng ta có sẵn và luôn luôn ổn định. Không dựa vào kinh sách, không dựa vào một kho tàng ngoài con người chúng ta, mà chúng ta dựa hẳn vào cái mà mình đang có. Mình có cặp mắt thì mình dựa vào cặp mắt, mình có mũi thì dựa vào mũi, không thể bỏ nó được. Mình không thể bỏ qua tai, mắt, mũi, lưỡi, bộ não …Mình phải dựa trên cái mà mình đang có.
Cái này không phải là trong thư viện có, nó không phải là trong kệ sách có, nó không phải là truyền thống ai để lại, nó không phải là một thứ tư tưởng nào, nó không phải là một thứ kiến thức gì, nó không phải là một trường phái nào, một ý tưởng gì, một thứ đạo gì. Mà nó là cái chúng ta có thực sự, đó là khả năng nhận biết tự có của mỗi người chúng ta.
2. Nền tảng thứ hai: Khả năng yêu thương tự có
Trong khả năng nhận biết tự có nó chứa luôn khả năng yêu thương tự có, khả năng tình thương tự có, khả năng tình cảm tự có. Người nào cũng có khả năng này hết, khả năng này là vô tận.
Nhưng khả năng nhận biết và khả năng tình cảm tự có này nó sẽ biến hóa thần kỳ…
3. Nền tảng thứ ba: Cảm nhận của các giác quan tự có để phát triển nhận thức tự có
Đó là sự làm việc của các giác quan. Trong đó có sự quan sát, cảm nhận của các giác quan. Sự cảm nhận của mắt, của tai, của mũi, của làn da. Chúng ta phải nhớ, chúng ta có đầy đủ các giác quan. Mà những giác quan chủ yếu là mắt thấy cảnh vật, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, da cảm nhận xúc chạm và khả năng suy tư trong bộ não. Mà tất cả những cái này là đều tự có cả, chúng ta đều đã có rồi. Mà các hoạt động của các giác quan này phối hợp khả năng nhận biết tự có và tình thương, tình cảm tự có sẽ phát triển ra nhận thức tự có.
4. Nền tảng thứ tư: Kiến thức riêng về những điều chúng ta quan sát
Từ nhận thức tự có dẫn tới chúng ta có kiến thức riêng về những điều chúng ta quan sát. Đó là kiến thức riêng, mà trước đây tôi hay gọi là trí chủ.
Triết Lý Tồn Tại dựa trên bốn nền tảng cơ bản này. Nó không dựa trên bất cứ một học thuyết nào. Nó không dựa trên bất cứ lời dẫn dắt nào, một sự dạy dỗ nào, một thứ định nghĩa nào, một thứ quan niệm gì. Cho nên tôi bảo nó rất thực tế, nó rất là khoa học.
Như vậy là quý vị đã quá rõ rồi, không có gì để quý vị phải mập mờ nữa, không có gì để lầm lẫn nữa, để mơ hồ nữa.
Qua đó, quý vị làm công tác biên tập cũng thấy tôi sử dụng ngôn ngữ như vậy để rồi quý vị sẽ lấy những ngôn ngữ đó sử dụng.

B. Những đặc điểm của Triết Lý Sống Kỳ Diệu

Có 12 đặc điểm cơ bản của triết lý này:
1. Tính chất tồn tại căn bản.
Tôi lấy hình ảnh từ động vật là con gà như ví dụ trên tôi đã nói, và lấy hình ảnh của con người hồn nhiên là đứa bé mới lớn ( dưới 3 tuổi) để thiết lập đặc điểm của tính chất tồn tại căn bản này.
Tính chất tồn tại căn bản bao gồm anh tồn tại như thế nào để anh sống thực sự an toàn, dễ chịu, hiệu quả và có ý nghĩa. Thí dụ như anh có đủ đồ ăn, thức ăn, có đầy đủ tiền bạc chi tiêu hàng ngày, không thiếu thốn, không nghèo đói. Anh không thể nào thiếu cơm ăn, áo mặc, tiêu dùng hàng ngày được nếu anh đi đúng cách của chương trình này. Dứt khoát là đối với một con người chúng ta, không thể nói cái nhà mình đang ở là tạm được, cái xe mình đang đi là  tạm được…mặc dù nó chỉ là tồn tại nhất thời. Nhưng chúng ta không thể dùng chữ tạm ở đây để chỉ rằng là nó không quan trọng. Nó thực sự quan trọng! Nó bảo vệ mạng sống của chúng ta. Nó đảm bảo về phương tiện cho chúng ta. Nó đảm bảo về thể chất chúng ta tồn tại khỏe mạnh, về tinh thần chúng ta tồn tại sung mãn.
Đối với cộng đồng thì chúng ta tồn tại có ý nghĩa. Tồn tại có ý nghĩa tức là anh tồn tại mà anh không động chạm tới sự tồn tại của người khác. Có rất nhiều người tồn tại trên sự đau khổ của người khác, bất chấp sự đau khổ của người khác để phát triển sự tồn tại theo ý muốn cá nhân của mình. Đó không phải là sự tồn tại có ý nghĩa. Khi nói sự tồn tại có ý nghĩa ở đây, tức là anh phải giúp đời. Tôi chưa có đi xa thêm về vấn đề cống hiến giúp đời, nhưng trước nhất, sự tồn tại của anh không có hủy hoại sự tồn tại của người khác. Anh tồn tại mà không hủy hoại sự tồn tại của thế giới tự nhiên, môi trường tự nhiên được. Tôi gọi sự tồn tại có ý nghĩa là như vậy!
2. Lòng nhiệt tình yêu đời, yêu mạng sống của mình, yêu sự tồn tại của mình.
Tức là tôi nói đến đời sống tinh thần. Chúng ta có sẵn tình cảm tự nhiên này, tình cảm tự có này. Chúng ta phải bộc lộ tình cảm đó với sự tồn tại của chúng ta. Chúng ta phải bộc lộ tình cảm tự có đó với dân tộc của mình! Chúng ta phải bộc lộ tình cảm tự có đó với cuộc đời này, với gia đình, với cộng đồng, với nhân loại, với tất cả thế giới chung quan chúng ta. Chúng ta phải bộc lộ tình cảm đó, chúng ta mới làm người được!
3. Luôn phát triển, duy trì và bảo vệ đầu óc tự do. 
Điều này vô cùng trọng đại đối với chúng ta. Quý vị biết rằng, không có dễ gì chúng ta luôn phát triển, duy trì và bảo vệ được trạng thái đầu óc tự do. Cái này là cái khó nhất trong tất cả các cái khó.
Sự thách thức lớn nhất đối với lòng kiên trì của mỗi hiền giả là làm sao phát triển, duy trì và bảo vệ được trạng thái tự do trong đầu óc của mình. Tôi đã nói đi nói lại rất nhiều về đầu óc tự do rồi, tôi không cần phải nói chi tiết ở đây nữa. Đối với anh, anh phải nhìn thấy trạng thái đầu óc của anh thế nào là không tự do, anh phải biết gìn giữ và quý trọng trạng thái đầu óc tự do của mình, đồng thời anh phải tôn trọng đầu óc tự do của người khác. Anh không được áp đặt ý tưởng chủ quan của anh, tư kiến riêng của anh trên đầu óc của người khác. Ví dụ như khi anh thương một người, anh thấy quá khứ của họ thì tự nhiên anh cảm thấy điều gì đó. Bởi vì anh là người hay để ý tới quá khứ, thành ra khi anh thấy quá khứ của người ta rồi thì bắt đầu thành kiến, cư xử khác đi, đầu óc của anh không còn tự do nữa. Anh muốn người ta phải như anh muốn, anh muốn người ta phải như anh suy tư, phải như anh suy nghĩ. Cái đó cũng không được. Nếu anh không giữ được đầu óc tự do, anh không tôn trọng đầu óc tự do của anh trong cách nhìn của anh, trong tư duy của anh hay nói cách khác là anh nhìn không tự do và tư duy không tự do thì anh không thể sống được với người khác. Bởi vì người nào cũng có một lịch sử, cũng có một quá khứ và có thể anh sẽ không hài lòng. Còn nếu anh đi tìm một người mà anh hài lòng thì người ta lại nhìn lại anh, người ta không hài lòng. Và anh cũng không đạt được cái gì ở họ. Cho nên, anh phải tôn trọng đầu óc tự do của mình và tôn trọng sự tự do trong đầu óc của người khác. Anh không thể đem tư kiến của anh để áp đặt lên người khác phải sống thế này, phải sống thế khác. Không thể được như vậy! Bởi vì trong tất cả các mối quan hệ của chúng ta, không ai có thể ràng buộc được ai, kể cả trong quan hệ vợ chồng – nếu không vừa ý thì có thể ra tòa án ly dị. Không vì cái quyền cha, quyền mẹ, quyền vợ, quyền chồng mà áp đặt lên người khác một thứ quyền lực.
Con người có khuynh hướng thể hiện quyền lực, đeo đuổi quyền lực, khẳng định quyền lực, say đắm quyền lực, dựa vào quyền lực để quan hệ với nhau. Quyền làm mẹ, quyền làm cha, quyền làm vợ, quyền làm chồng, quyền làm người yêu… quyền chức này, quyền chức nọ, quyền chức kia…  Thậm chí, quyền với ma, với quỷ! Thật ra thì, chẳng ai chứng minh ma quỷ là như thế nào, nhưng anh thể hiện quyền của anh với ma có nghĩa là anh muốn thể hiện quyền của anh với người sống, chứ không phải là thể hiện quyền lực của anh với người chết. Thế nhưng, vì say mê quyền lực, say đắm quyền lực mà anh cũng muốn thể hiện cái quyền của anh với một xác chết. Nỗi say đắm quyền lực của con người nó thật ghê gớm như vậy! Nó kinh khủng quá!
Và chính vì cái lòng say mê quyền lực mà anh là kẻ ăn xin, anh cũng muốn có quyền lực. Anh cùi, hủi, anh đi ăn xin người ta giống như anh đem cái quyền cùi hủi ra anh xin nhưng người ta không cho, anh lại dọa người ta. Anh đi làm điếm, anh cũng muốn có quyền lực. Anh đi ở đợ, anh cũng muốn có quyền lực. Người mong muốn có quyền lực có khắp tất cả hành tinh này! Người nghèo cũng muốn có quyền lực, tại sao người giàu không tới nuôi tôi. Trẻ con trong trường học cũng muốn thể hiện quyền lực, lập bè lập nhóm với nhau để ăn hiếp những đứa trẻ khác. Nó kinh hoàng đến mức như vậy!
Khi anh thể hiện quyền lực, đeo đuổi quyền lực, say đắm quyền lực thì bản thân anh đã mất tự do và anh đang sống trên một sự áp đặt với người khác để đáp ứng mong muốn quyền lực của anh. Thậm chí người học trò cũng muốn có quyền lực với thầy giáo trong trường và người lại, thầy giáo cũng muốn có quyền lực với học trò. Thế giới tranh giành quyền lực khắp, khắp mọi nơi. Từ trong triều đình cho đến ngoài xã hội, cho đến trong các tôn giáo. Không chỗ nào mà không có sự tranh đua quyền lực!
4. Luôn có cách nhìn tích cực và lấy mọi khó khăn, thách thức làm cơ hội để vươn lên.
Ở đời chúng ta phải luôn điều chỉnh cách nhìn của mình để không nhìn thấy cái gì là xấu, không có cái gì khiến chúng ta bất mãn cả. Hãy biến những cái gì mà xã hội cho rằng là tiêu cực, là đau buồn, hãy biến những điều trong tâm hồn chúng ta như buồn tủi, lo lắng…hãy biến tất cả những điều mà mọi người không muốn đó thành ra cơ hội tốt nhất để chúng ta vươn lên.
Hôm qua tôi có chia sẻ với các cháu lớp Vườn Hoa Mơ Ước, ngày xưa, tôi hay lấy nỗi buồn, nỗi cô đơn, thiếu thốn, cái mà mình không bằng ai hết trong xã hội loài người…làm trường học cho chính mình để tốt nghiệp trường học đó, làm bức tường cho chình mình để mình tìm cách vượt qua, chứ không thấy nó là sự bế tắc. Và tôi rất là vui khi mà những điều buồn nó đến với tôi, khi tâm hồn của tôi cảm thấy cô quạnh, buồn buồn gì đó thì cảm xúc đó đối với tôi nó rất là quý giá. Vì lúc ấy, đầu tôi sẽ rất trong, trí rất sáng. Niềm vui lớn nhất là tôi coi nó là cái trường, cái lớp, một khóa thi mà tôi chắc chắn sẽ đỗ, sẽ tốt nghiệp hạng xuất sắc. Cho nên, nếu lâu quá không có nỗi buồn nào đến với mình, trong tâm hồn không gợi lên một chút gì buồn, mình không có cái gì để mình thi…mà mình muốn làm người học trò thi hoài thích hơn. Trước đây, thỉnh thoảng tôi hay có một nỗi nhớ là nhớ những nỗi buồn ngày xưa sao không thấy nó hiện trong tâm hồn của mình. Nó giống như mình nhớ người yêu vậy đó. Nó rất là thích thú. Cho nên, chúng ta không sợ những bất trắc, không sợ những chuyện buồn tủi.
5. Bản chất trung thành, thông minh và khôn ngoan sâu thẳm
Một đặc điểm nữa, đặc điểm thứ 5 (những đặc điểm này không có sắp xếp theo thứ tự được) – đó là đặc điểm về bản chất trung thành, thông minh và khôn ngoan sâu thẳm. Khôn ngoan sâu thẳm này là sự khôn ngoan chứa đựng tình cảm tự có, chứ không phải là nó không chứa đựng tình cảm tự có trong sự khôn ngoan lanh lợi của anh. Nếu sự khôn ngoan lanh lợi của anh mà thiếu tình cảm tự có làm nền tảng trong cái khôn ngoan ấy thì cách thức anh sống sẽ rất nguy hiểm cho chính anh, và cũng rất nguy hiểm cho cộng đồng. Thông minh, khôn ngoan sâu thẳm, cởi mở, dễ gần gũi, hồn nhiên, vô tư, thân thiện, nhiệt tình, đầy năng lượng sống, không chép miệng, không thở dài, không than, không oán trách, không đổ thừa – đó là nội dung của đặc điểm này.
6. Lấy sự tỉnh táo trong tình thương, trong sự cảm thông, tha thứ để làm nguyên tắc cư xử.
Phát triển lòng thương người, lòng nhiệt tình, cảm thông với người khác, nhưng không để cho những suy nghĩ, những ý tưởng, những phàn nàn hay lời khen của người khác ảnh hưởng lên đầu óc tự do của mình.
Ý thức về tình yêu có sẵn, mình khám phá tình yêu có sẵn trong người của mình. Rồi từ đó mình nâng lên một bước nữa là mình phát triển tình yêu có sẵn đó với dân tộc và quê hương mình trước. Bởi vì tình thương đối với dân tộc và quê hương có vị trí tốt hơn, nó làm cho tình thương của mình vô tư hơn đối với vấn đề tình thương cá nhân. Nó lớn hơn tình thương cá nhân, nó lớn hơn tình thương gia đình để nó giúp cho chúng ta cân bằng được, kiểm soát được hay đảm bảo những tính chất tích cực, phát triển những tính chất tích cực trong tình thương cá nhân của mình.
7. Sống với phẩm chất của nhà khoa học
Đặc điểm thứ 7 gần giống với đặc điểm đầu óc tự do, tức là anh luôn luôn thể hiện là một người không để ý tới chuyện riêng tư của người khác, không để ý đến các ý kiến riêng, không bực bội khó chịu với các ý kiến riêng tư của người khác, và cũng không để những ý kiến riêng tư của người khác ảnh hưởng tới chính anh. Tức là anh đích thực là một nhà khoa học.
8. Thể hiện nét văn hóa riêng của mỗi hiền giả
Khi ứng dụng Triết Lý Tồn Tại, mỗi hiền giả sẽ hình thành nét văn hóa riêng. Tôi không muốn ám chỉ rằng, hiền giả ấy có một triết lý sống, vì điều đó có vẻ cao siêu hay là một cái gì đó nó hơi xa rời với thực tế. Nhưng nếu tôi nói rằng, toàn bộ các triết lý sống hình thành được nét văn hóa riêng của mỗi hiên giả thì vấn đề nó sẽ khác. Nó nhẹ nhàng hơn, nó sâu thẳm hơn, nó tình cảm hơn, nó thực tế hơn, nó thiết thực hơn, nó đẹp hơn, nó hấp dẫn hơn.
Trong nét văn hóa riêng của anh có nét văn hóa của dân tộc. Người ta nhìn anh, người ta thấy hồn dân tộc của anh, người ta thấy tình thương, thấy tình cảm của anh đối với dân tộc của anh. Người ta thấy anh có những đặc điểm riêng mà người ta nhìn vào đó, người ta biết được là người Việt Nam.
Nói tới người Việt Nam là nói tới lòng yêu nước, lòng yêu quê hương của mình. Nói tới người Việt Nam là nói tới tính độc lập và kiên định, bằng mọi giá phải giữ gìn nền độc lập bờ cõi và giữ gìn sự độc lập trong đầu óc. Nói tới người Việt Nam là sẵn sàng quên quá khứ để thông cảm, tiến tới sự hợp tác và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Nói tới người Việt Nam là cần cù, hiếu học, nói tới người Việt Nam là tình cảm gia đình, người này lo lắng cho người kia. Nói tới người Việt Nam là tinh thần thúc đẩy con cái học tập…Đó là những nét văn hóa riêng. Chứ không phải nét văn hóa riêng là anh thích gặm xương, anh thích ăn ớt cay… Trong nội dung này không có quan tâm đến mấy điều đó. Tức là, trong nét văn hóa riêng của anh có nhiều vấn đề nhưng trong đó có vấn đề của dân tộc.
- Vấn đề thứ hai trong nét văn hóa riêng của mỗi người là anh dựa trên nền tảng của triết lý sống này. Khi anh sinh sống, giao tiếp, sinh hoạt cần phải biểu hiện rất rõ anh là người dựa trên cái trong người anh đang có, chứ không mê đắm bất cứ lý thuyết nào ở bên ngoài. Một lý thuyết nào đó ở bên ngoài anh chỉ nghiên cứu để chơi, anh không thể bị mấy tác phẩm văn học như là Tam Quốc chí, Thần Điêu Đại Hiệp,… những tác phẩm văn học khác. Rồi anh lại đem những đặc điểm của các nhân vật trong các tác phẩm tiểu thuyết đó, anh biến anh thành họ. Tức là anh không còn tự do nữa. Anh biến những đặc điểm về cách suy tư, cách hành xử của những nhân vật đó rồi anh đem anh áp dụng, rồi anh coi đó như là tài sản riêng của anh để anh học, anh ứng dụng trong cuộc sống. Thì cái đó rất tồi tệ! Đi đâu anh cũng ca ngợi Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tam Quốc Chí, Hán Sở Tranh Hùng gì đó…rồi tam thập lục kế…rồi đủ thứ chuyện. Anh đi học những thứ đó rồi anh bị ảnh hưởng mấy thứ đó, anh ảnh hưởng những nhân vật đó. Rồi anh đóng vai những nhân vật đó thì hỏng mất rồi!
Cho nên, trong nét văn hóa riêng anh phải thể hiện triết lý riêng của anh là anh dựa vào cái gì – Anh dựa vào cái anh đang có, cái mà tạo hóa đã giành cho anh, anh sinh ra là anh có nó rồi. Cái đó không phải là sách vở, lý thuyết. Nó là tài sản thực sự, tài sản hữu hình đến vô hình, tài sản của khả năng tinh thần và khả năng của cơ bắp. Tức là nền tảng của triết lý này nó phải biến thành nét văn hóa của anh.
- Cái thứ ba trong nét văn hóa của anh là nó thể hiện cái nhìn của anh, cách sống của anh, cách ứng xử của anh…nó thể hiện giá trị chung của loài người, của nhân loại. Anh tới nền văn hóa nào, người ta cũng chấp nhận. Tức là anh phải tìm những giá trị chung của loài người để anh thể hiện giá trị chung đó đối với tất cả các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Như vậy, trong người anh sẽ có ba đặc điểm này, thể hiện ba đặc điểm này: Nét văn hóa dân tộc của anh, nét văn hóa của thế giới và nhận thức riêng của anh, triết lý sống riêng của anh. Ba đặc điểm này cộng lại thành văn hóa của một hiền giả Minh Triết.
9. Tự phát triển kiến thức chuyên môn để tồn tại.
Anh đã có đặc điểm văn hóa riêng của anh rồi thì điều tất yếu là anh phải phát triển kiến thức chuyên môn. Kiến thức về lịch sử, địa lý, nghệ thuật, về kỹ năng, về nghề nghiệp…Bây giờ việc phát triển kiến thức riêng của mình không khó như 20 năm về trước. Hồi đó người ta phải vào trường, ghi danh, lấy bằng, đóng tiền…Bây giờ, anh cần học cái gì thì anh lên Google anh tìm kiếm vấn đề đó. Thậm chí anh làm nghề bác sỹ, anh cũng có thể học thêm từ việc tìm kiếm qua Google. Anh làm công việc gì anh cũng có thể lấy kiến thức từ tìm kiếm trên google để anh phát triển, để anh bổ sung cho kiến thức riêng của anh.
Anh phải có những kiến thức tối thiểu, phát triển những kiến thức tối thiểu. Anh dùng kiến thức riêng của anh ở trên nền tảng của triết lý để phát triển, kiểm soát và quản trị những kiến thức anh lấy từ cuộc sống, lấy từ ngoài đời để bổ sung cho sự tồn tại của anh như kiến thức về luật pháp, về lái xe, về y tế, về sức khỏe…Anh phải là con người khỏe mạnh. Anh không thể bừa bãi để anh mất sức khỏe được.
Nói chung là mỗi hiền giả cần phải có nhiều kiến thức căn bản và không cần phát triển những kiến thức không phải là căn bản nhất. Bởi vì chúng ta không có thì giờ để chúng ta sống lâu, cho nên chúng ta chỉ quy hoạch kiến thức căn bản nhất thôi. Chứ không phải để anh khoe kiến thức với thiên hạ. Anh không có gì để khoe với thiên hạ cả!
10. Không sa vào cái bẫy của cảm xúc mơ hồ.
Cảm xúc mơ hồ là anh nghe, anh đọc, rồi anh bị kích động rồi anh suy diễn, anh tưởng tượng, anh mộng mơ…Tâm hồn con người mà nhất là nữ giới rất dễ dàng sa vào cảm xúc mơ hồ. Từ một lời nói, từ một âm điệu của ai đó, từ một sự dẫn dụ của ai đó, qua lời ca, qua tiểu thuyết… dẫn anh vào một thế giới hoang đường, và anh đắm chìm trong cái đó. Như hôm qua trong lớp Vườn Hoa Mơ Ước, các cháu ấy nói rằng, có những học sinh 15 tuổi đọc các tiểu thuyết rồi sống mơ mơ hồ hồ trong các nhân vật đó, luôn luôn có cảm xúc với các nhân vật đó rồi biến mình thành các nhân vật đó. Những cảm xúc như vậy thì rất là nguy hiểm.
Bất cứ thứ cảm xúc nào mà mang tính mơ hồ sẽ dẫn tới sự phá hủy cuộc đời của anh. Trong khi chúng ta không đủ thời gian để phát triển những cảm xúc thực tế, những cảm xúc khoa học của triết lý tồn tại của chúng ta thì tại làm sao chúng ta lại sa vào cái bẫy của cảm xúc mơ hồ.
11. Sử dụng ngôn ngữ không mơ hồ.
Khi anh sử dụng ngôn ngữ phải rất rõ ràng. Đúng như trong bảng Phật Tâm Danh, quý vị cũng đã đọc, đó là: Lời nói như hoa trời rơi xuống. Nói vừa rõ ràng, nói vừa chiêu cảm, nói vừa hấp dẫn, nói vừa động viên, nói vừa gây cảm hứng, nói vừa khuyến khích cả anh lẫn người khác.
Khi dùng ngôn ngữ thì bao nhiêu phần trăm là lời nói, và bao nhiêu phần trăm là những dấu hiệu: Như là nụ cười, thái độ, đi đứng, cách thức anh biểu hiện…Còn ngôn ngữ bằng lời thì chỉ ở mức độ nào đó mà thôi, chứ không phải là chỉ có sử dụng ngôn ngữ bằng lời. Khi anh trình bày vấn đề, anh phải ráng cố gắng nói làm sao đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, gần gũi nhất. Bởi vì, anh càng sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu cho người khác thì chứng tỏ rằng anh là người thấy tất cả các chân lý, thấy tất cả bản chất của những vấn đề khó thấy, không mơ hồ.
12. Chấp nhận căng thẳng, thách thức để tiến lên.
Thách thức lớn nhất là thách thức với chính anh. Thách thức với những quan điểm riêng của anh do trong quá khứ đã hình thành, với những quyền riêng ở trong cuộc đời từ quá khứ anh đã hình thành. Bây giờ cái này anh chống lại nó, anh tự do với nó có nghĩa là anh không cho nó ảnh hưởng tới anh.
Đồng thời, có một thách thức nữa là loài người xung quanh anh luôn luôn có cái nhìn áp đặt lên anh, anh làm sao tự do với sự áp đặt này mà người ta cũng không thể biết được là anh tự do với sự áp đặt này. Chỉ có mình anh biết là anh đang tự do với tất cả các sự áp đặt về tư tưởng, về lý thuyết, về các định nghĩa, về quan điểm sống của chính anh đã hình thành trong quá khứ và của người khác áp đặt lên anh, mà chỉ mình anh biết thôi, khó có người khác biết được.
Nhưng mà sự căng thẳng này, sự thách thức này chính là bản chất tuyệt vời của sự tồn tại của anh. Nó lại dẫn tới đặc điểm tự do mà đoạn đầu tôi đã trình bày với quý vị. Nó rất khó, khó lắm chứ không khó vừa! Vô cùng khó! Tôi nói trước cho quý vị, đây là thách thức lớn nhất! Chúng ta chấp nhận thách thức, chúng ta buộc phải thách thức, chúng ta phải đi vào thách thức. Chúng ta không thể tránh né sự thách thức được. Rồi dần dần, chúng ta trở thành một phong cách sống, một nét văn hóa riêng, một triết lý riêng của mình, không còn thách thức nữa. Khi chúng ta đã quen mất thì chúng ta phản ứng tự động, hoàn toàn tự động. Sau hai năm, ba năm, bốn năm thì chúng ta sẽ có phản ứng, giống như phản ứng tự động chứ không có gì thách thức nữa. Giống như khi quý vị tập lái xe, tập lái máy bay, sẽ gặp thách thức lúc ban đầu trong một, hai năm: thách thức về luật, thách thức về cách điều hành xe, thách thức của các bảng hiệu dẫn đường, về tốc độ trên đường đi… Nhưng sau một, hai năm lái xe đã quen rồi thì những thách thức đó không còn nữa.
C. Cách thể hiện Triết Lý Sống Kỳ Diệu cho mỗi hiền giả
Phần còn lại là cách biểu hiện của các hiền giả đối với triết lý sống này như thế nào. Điều này chắc tôi không cần phải bàn nhiều. Tôi có chia sẻ với quý vị về vấn đề chúng ta phải ý thức về sự thách thức, thách thức với chính mình và thách thức với áp đặt của xã hội. Nhưng chỉ có mình biết sự thách thức ấy mà thôi. Và cách thể hiện thì quý vị biết rồi, tôi không bàn nhiều về phần đó nữa.

Ngôn ngữ trí thấy
Bây giờ tôi bàn sơ qua về phần từ ngữ. Như vậy, trang web của chúng ta phải sắp xếp lại. Từ ngữ chúng ta phải đổi lại hết, đổi lại rất nhiều. Ví dụ như từ “trí huệ” chúng ta phải sử dụng là “khả năng biết tự có”, “khả năng thấy tự có”; “Phật tánh”, chúng ta không sử dụng từ “Phật tánh” nữa! Nhiều vấn đề chúng ta phải bỏ, chúng ta không cần thiết phải sử dụng cái đó. Trình độ của quý vị khá hết rồi, thời kỳ đó qua rồi, chúng ta không cần phải luyến tiếc. Kể cả chữ “thiền” cũng bỏ luôn, không cần sử dụng nữa, vì nó cũng gây dễ hiểu lầm và nó cũng làm cho quý vị dễ sống trong mơ hồ. Chữ “thiền” trong quyển “Thiền Minh Triết” cũng phải đổi lại, không cần phải sử dụng chữ “thiền” nữa. Chữ “thiền” trong tất cả tài liệu có thể không cần thiết phải sử dụng. Trình độ của quý vị bây giờ đã khác hết rồi, nhận biết của quý vị bây giờ đã khác hết rồi, thực tế quý vị  đã thấy hết tất cả những giá trị. Kể cả hai chữ “Duy Tuệ” nhiều khi cũng chỉ là một kỷ niệm thôi, không cần thiết phải tồn tại nữa.
Tôi thích hình ảnh, màu sắc ở cực quả địa cầu, nếu quý vị vào Google, quý vị vào “hình ảnh”,  quý vị gõ chữ “Aurora”, quý vị sẽ thấy hình ảnh màu sắc của 2 cực địa cầu. Quý vị có thể vào Wikipedia để xem người ta giải thích hiện tượng ánh sáng của 2 cực địa cầu, tiếng Việt có tên là “cực quang”. Quý vị có thể đọc để biết tại sao nó ra được những màu sắc ánh sáng huyền ảo, kỳ diệu và những âm thanh kỳ diệu. Khi những màu sắc đó xuất hiện ra trên bầu trời, do từ trường đặc biệt của 2 cực quả địa cầu và những ánh sáng do mặt trời phát ra, những bão nhiệt của mặt trời phát ra phối hợp với từ trường của mặt trời từ đó tạo ra ánh sáng rất đẹp, rất huyền ảo, huyền bí trên bầu trời ở 2 cực quả địa cầu.
Và khi chúng ta đến đó, chúng ta sẽ thấy người dân sống ở 2 cực địa cầu không thể sống mà không tôn trọng bản chất của thiên nhiên. Người ta làm cái nhà cũng phải tôn trọng bản chất thiên nhiên ở đó, người ta ăn cũng phải tôn trọng bản chất thiên nhiên ở đó, người ta học cũng phải tôn trọng bản chất thiên nhiên ở đó. Nếu không tôn trọng bản chất thiên nhiên ở 2 cực địa cầu thì người ta phải chết, không có con đường nào khác. Cho nên người ta không thể chạy theo suy diễn, theo ý tưởng của người ta để người ta tồn tại được mà người ta phải thuận theo tất cả các giác quan người ta cảm nhận được bản chất của 2 cực địa cầu và người ta phải thuận theo đó. Nhận thức, kiến thức, tình cảm của người ta phải thuận theo bản chất của 2 cực địa cầu đó mà tồn tại. Rồi lâu ngày người ta tổng kết lại, rồi người ta phát minh thêm để tồn tại. Nhưng người ta có phát minh thêm cách nào thì cái kết quả phát minh đó đều phải phù hợp với bản chất của thiên nhiên nơi đó. Vì nếu anh làm ngược lại, anh đi ngược lại với bản chất thiên nhiên thì anh phải chết.
Cho nên về phần ngôn ngữ, quý vị ở Ban Biên tập phải làm việc rất là nhiều, phải chịu khó thay đổi các từ ngữ và những mẫu chuyện nào thấy rằng không thay thế được thì bỏ luôn và chúng ta hoàn toàn thể hiện rõ nét con đường phía trước, không lầm lẫn với ai cả. Trong một số trường hợp quý vị dùng chữ đồng đạo, nay quý vị cũng không dùng chữ đồng đạo nữa mà dùng là “cùng trong một gia đình” hay “trong gia đình” gì đó, quý vị sáng tạo thêm nhưng không được dùng chữ “đồng đạo” nữa. Còn chữ “nhiệm màu” có thể đổi lại là chữ “thần kỳ”, chữ “đạo” không sử dụng, sử dụng từ “con đường”, chứ không sử dụng chữ “đạo”,  dùng “tính khôn tự nhiên” thay cho chữ “tâm linh”.
Quý vị sẽ bàn với nhau để điều chỉnh lại trong Từ điển Duy Tuệ vừa rồi quý vị làm. Có lẽ nên cố gắng sắp xếp một người để chịu trách nhiệm về việc này, quý vị làm rồi nhiều vị khác góp ý, nhưng phải có sự phân công, nhất là các bạn trẻ, để các bạn trẻ làm việc với nhau cho nhanh và đảm nhận công việc đó rồi hội ý với người khác. Quý vị có thể hội ý với các nhà ngôn ngữ học. Trong số các hiền giả chúng ta có 3 nhà ngôn ngữ học rất xuất sắc: Đó là nhà ngôn ngữ học, giáo sư Ivo Vasiljev (hiền giả Duy Phật Nhãn), giáo sư Báu (tức hiền giả Duy Vô Tướng) và nhà ngôn ngữ học, giáo sư Phạm Đức Dương (tức hiền giả Minh Tuệ), quý vị có thể tham khảo thêm ý kiến của các vị ấy. Ví dụ trong những bài tôi tổng kết hôm nay, quý vị cũng có thể nhờ các hiền giả này biên tập lại, sắp xếp lại làm sao để nó mang tính học thuật một chút, mang tính kinh viện một chút. Nghĩa là chúng ta bây giờ phải tập một phong cách không quá kém, một phong cách chững chạc nhưng dễ tiếp cận, dễ hiểu đối với mọi người.
Nói tóm lại, chúng ta đưa ra những vấn đề mang tính sâu sắc, nhưng ngôn ngữ chúng ta dùng thì lớp 6, lớp 7, lớp 10 trở lên có thể hiểu được. Và tôi rất chú ý đến các em 6 tuổi trở lên, vì những em từ 6 tuổi trở lên học rất tốt.
Cho nên, vấn đề chúng ta đưa ra nó sâu, nó hơi khá trừu tượng, nhưng mà phải dùng tất cả mọi hình ảnh rất cụ thể ... Và chúng ta phải bắt chước trẻ con, để làm sao mà 7 tuổi, 8 tuổi, 10 tuổi,  11 tuổi có thể hiểu được; giống như anh kể chuyện mà các cháu có thể hiểu được. Chữ kinh viện ở đây chúng ta phải nên ý thức thêm, có thể hồi xưa chữ kinh viện dùng thì rất khó hiểu, tức là những gì khó hiểu người ta đưa vào kinh viện, nhưng ở đây chúng ta phải thay đổi lại: Khi nói thì rất sâu sắc, rất chân lý, nhưng khi trình bày làm sao cho người ta vẫn phải công nhận là sâu sắc, chân lý nhưng khi sử dụng ngôn ngữ thì người ta thấy rất bình  dân, rất gần gũi, như là thiếu niên - thiếu niên có thể hiểu được. Chữ “kinh viện” ở đây tôi muốn nói là chúng ta tập sống với phong cách sâu sắc, nhận thức sâu sắc, không hời hợt. Đầu óc chúng ta sâu sắc, tình cảm chúng ta sâu sắc nhưng khi bộc lộ ra ngoài thì rất thân thiện, rất là gần gũi, mà trẻ con cũng có thể tiếp cận chúng ta được.
Bắt đầu phát triển đi vào giá trị chung của nhân loại
Nội dung trao đổi của tôi hôm nay với quý vị đến đây là xong. Bài này tôi đề nghị quý vị phiên tả, đọc đi đọc lại, rồi nghe đi nghe lại. Để sau này, quý vị trong nước thì có chương trình của trong nước; ở châu Âu - tôi cũng hy vọng là sẽ có chương trình của châu Âu. Và tôi hy vọng ở Nhật sắp tới cũng sẽ có chương trình của Nhật và cũng sẽ có chương trình bên Thái Lan. Rồi chúng ta cũng sẽ cố gắng để một vài năm nữa chúng ta sẽ có chương trình bên Trung Quốc.
Chắc chắn là chúng ta sẽ mở một chương trình tại Trung Quốc, tại nước Nhật, cũng như tại nước Thái Lan. Ba nước ấy, nhất là Trung Quốc, chúng ta phải tìm mọi cách để giới thiệu, chia sẻ tình cảm của chúng ta đối với người dân Trung Quốc. Đồng thời chúng ta cũng học lại người dân Trung Quốc nhiều vấn đề, nhưng chúng ta cũng chia sẻ tình cảm chúng ta với người dân Trung Quốc về cái thấy của chúng ta. Rồi chia sẻ với người Nhật, chứ không phải chỉ với người Việt Nam sống bên Nhật hay người Việt nam sống bên Trung Quốc.
Các hiền giả châu Âu chia sẻ với nhau trong cộng đồng người Việt Nam, nhưng rồi cũng phải chia sẻ cho người châu Âu.
Giai đoạn bây giờ là chúng ta bắt đầu phát triển đi vào giá trị chung của nhân loại. Quý vị hiền giả trong nước đã đóng vai trò rất xuất sắc trong mười mấy năm qua rồi. Tôi coi như là các hiền giả trong nước đã hoàn thành cơ bản trong đất nước chúng ta. Như thế, từ từ nó phát triển dần và bây giờ bắt đầu khuynh hướng, phong cách quốc tế để chúng ta chia sẻ tâm tình của chúng ta đối với các nước thế giới, đặc biệt nhất là các nước Trung Quốc, Nhật, Thái Lan. Đó là những nước láng giềng rất quan trọng.
Bên châu Âu, tôi rất hy vọng ở quý hiền giả ở châu Âu, ở Na-Uy, phát triển theo một hướng, Ba Lan phát triển theo một hướng, Đan Mạch phát triển theo một hướng nào đó. Tôi có thể nhìn thấy trước nhưng tôi chưa thể nói cụ thể được. Và tôi đặt hy vọng rất lớn sự chia sẻ chúng ta đối với nền văn hóa châu Âu, nền văn hóa Nhật, nền văn hóa Trung Quốc và nền văn hóa Thái Lan.
Và mỗi hiền giả tự hình thành nhiệt huyết, ước mơ của mình để mình xung phong. Ví dụ như có một số các vị hãy bắt đầu học tiếng Thái. Tiếng Thái không khó, dễ lắm, quý vị trẻ học nhanh lắm, chỉ học chừng vài ba tháng là cũng tốt rồi. Rồi tiếng Hoa, tiếng Quan Thoại, tiếng Nhật Bản… Tôi hy vọng là một số hiền giả bên Nhật Bản sẽ có bước tiến chắc chắn, chậm chắc nhưng mà sẽ phát triển được. Bên Trung Quốc chúng ta phải đi từ người dân Trung Quốc chứ không phải người Việt sống tại Trung Quốc.
Các hiền giả Việt nam cũng vẫn giữ vai trò nồng cốt để tỏa các tình thương của mình ra thế giới. Từ ở trong tỏa ra chứ không phải ở ngoài hất vào. Chúng ta tránh tình trạng ở ngoài nhảy vào mà cố gắng chủ động từ trong nước tỏa ra. Ánh sáng triết lý sống của chúng ta từ trong nước tỏa ra. Bây giờ tôi chỉ đóng vai trò cố vấn cho các hiền giả, các hiền giả tự xây dựng kế hoạch với nhau, tự phát triển với nhau. Tôi sẽ cố gắng giúp cho vai trò cố vấn thôi chứ tôi không thể làm chuyện khác được vì sức khỏe của tôi cũng không cho phép.
Như vậy, từ đây những điều tôi trao đổi với quý vị nó không còn trên phạm vi của một quốc gia nữa. Những bài nói chuyện của tôi từ đây về sau là nó mang giá trị chung của loài người. Còn những gì có giá trị riêng cho người Việt Nam thì tôi đã trao đổi với quý vị khá nhiều rồi. Bây giờ sang thời kỳ của gia đoạn kế tiếp là chia sẻ với giá trị chung của nhân loại.
Bài tổng kết hôm nay cũng nói lên là chúng ta bắt đầu đi vào giai đoạn khác, giai đoạn mới hơn tức là phát triển giá trị chung của loài người. Trong các bài nói chuyện của tôi, nó không còn giành riêng cho người Việt Nam. Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu những nền văn hóa khác nhau. Tôi sẽ tới một số nước châu Phi nữa, một số nơi khác nữa để nghiên cứu tìm hiểu giá trị chung của năm châu, bốn biển.
Cuộc chia sẻ của chúng ta hôm nay dừng tại đây. Cảm ơn tất cả quý vị.
Cực Quang Aurora, 22.9.2012